.

Giải mã nghệ thuật cổ Champa

.

Người Chàm ở Trung bộ Việt Nam có những truyền thống nghệ thuật, kiến trúc đầy ấn tượng cách đây hơn 1.700 năm. Vương quốc Champa - nằm trên ngã tư giữa các nước Ấn Độ, Java và Trung Hoa - là một trung tâm giao thương sầm uất ở vùng Đông Nam Á và là đối thủ chính của đế chế Khmer hùng mạnh. Người Chàm chủ yếu được biết đến trong lịch sử là những thương nhân, thủy thủ và chiến binh, đồng thời họ cũng là những thợ thủ công thiện nghệ và kiến trúc sư tài năng.

Nhóm tháp Dương Long, Bình Định, thế kỷ 12-13.                                                                        Ảnh: HÀ DUY
Nhóm tháp Dương Long, Bình Định, thế kỷ 12-13. Ảnh: HÀ DUY

Trong cuộc phỏng vấn độc quyền này, James Blake Wiener (JW) của trang mạng Từ điển Bách khoa Cổ sử (Ancient History Encyclopedia) có cuộc trao đổi với Trần Kỳ Phương (TKP) - chuyên gia lịch sử văn hóa Champa - về những đặc điểm độc đáo của nghệ thuật và kiến trúc Chàm. ĐNCT xin giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc phỏng vấn qua bản dịch của Hà Duy.

JW: Chào ông Trần Kỳ Phương! Cám ơn ông giới thiệu cho chúng tôi về thế giới nghệ thuật và kiến trúc cổ Champa. Mặc dầu người Chàm đã hấp thụ ảnh hưởng nghệ thuật từ Java, Campuchia và Ấn Độ, tôi muốn hỏi ông, những khía cạnh đặc sắc nào của nghệ thuật và kiến trúc Chàm có thể được nêu lên khi so sánh nó với các nền nghệ thuật láng giềng? Hơn nữa, làm thế nào chúng ta có thể định nghĩa và tiếp cận với mỹ học Chàm: nên chăng qua những lăng kính của nghệ thuật Hindu (Ấn giáo) cổ và qua những vệ tinh văn hóa của “Đại Ấn”?

TKP: Nghiên cứu những đặc điểm địa lý của vương quốc Champa và của các nước láng giềng cho phép chúng ta hiểu được những khía cạnh độc đáo của nghệ thuật Chàm. Vương quốc Champa tọa lạc trên đại lộ hải thương gọi là “Con đường Tơ lụa trên biển” và nằm giữa hai nền văn minh chính của châu Á: Ấn Độ và Trung Hoa. Vương quốc này tích cực tham gia vào hệ thống hải thương quốc tế từ thế kỷ thứ 2 CN trở đi. Champa tạo được những mối quan hệ mật thiết với các vương quốc ở Đông Nam Á lục địa và với các đế chế hải đảo thuộc Indonesia hiện nay, kết quả là, nghệ thuật Chàm đã dung hóa/tiếp biến những xu hướng nghệ thuật đa dạng từ Đông Nam Á, Ấn Độ và kể cả Trung Hoa.

Xét về nền kiến trúc tôn giáo Hindu của Champa, nơi không có truyền thống sử dụng rộng rãi vật liệu đá trong xây dựng, trái hẳn với truyền thống kiến trúc của các nước láng giềng. Công nghệ xây dựng Champa nổi bật với sự sử dụng gạch, trong khi Khmer và Java thì nghiêng hẳn về công nghệ sử dụng đá được minh chứng bởi các ngôi đền Angkor Wat hoặc Angkor Thom (ở Campuchia), và Borobodur hoặc Prambanam (ở Indonesia). Sự khác biệt về vật liệu xây dựng hàm ý những khác biệt về công nghệ cấu trúc cũng như những khác biệt về sử dụng nguồn nhân lực cống hiến vào các dự án xây dựng. Sự biến đổi giữa hai xu hướng tiếp cận này - sử dụng gạch hoặc đá - trong cấu trúc xây dựng có thể được giải thích bằng những hệ thống kinh tế đặc thù đã được tiếp biến bởi sự tương thích của các nền văn minh cổ ở Đông Nam Á.

Công nghệ của Khmer và Java là những nền công nghệ của những xã hội nông nghiệp, tọa lạc tại những đồng bằng rộng lớn (như của Campuchia) hoặc tại những bình nguyên giàu đất khoáng, đất nham thạch (như của đảo Java). Trong những xã hội nông nghiệp này, vua chúa có khả năng điều động dễ dàng một lực lượng nhân công phong phú để lao tác trong một thời hạn dài. Tùy thuộc vào ước nguyện của giới cai trị, nguồn nhân lực này được sử dụng để xây dựng đền đài bằng sa thạch hoặc các loại đá khác. Ngược lại, người Chàm nghiêng hẳn về nền kinh tế hải thương.

Trong những xã hội thương mãi, khả năng điều động nguồn nhân lực cho những nhu cầu xây dựng các công trình tôn giáo trọng yếu đều bị hạn chế.

Xây dựng một ngôi đền bằng đá đòi hỏi một sự tập trung các nguồn nhân lực để đục cắt, vận chuyển đá và cho tất cả các công đoạn khác của chính một cấu trúc đá. Trong khi, một ngôi đền gạch đã không yêu cầu nguồn nhân lực hùng hậu như thế: với một số lượng nhân công khiêm tốn hơn, được tận dụng trong một thời hạn nhất thiết, có khả năng kiến tạo những ngôi đền có kích cỡ bề thế như nhóm tháp Dương Long (Bình Định), là một trong những ngôi đền Hindu bằng gạch cao nhất ở Đông Nam Á, 42 mét.

Bên cạnh những dị biệt này về vật liệu và công nghệ cấu trúc, các truyền thống nghệ thuật cổ ở Đông Nam Á cũng sở hữu những cá tính lỗi lạc trong sự đa dạng của những phương thức thể hiện. Điều này liên quan đến những thiết kế mặt bằng (bình đồ) và ý tưởng không gian của mô hình được ứng dụng cho từng nhóm đền-tháp. Mặt bằng trong kiến trúc Chàm thường bao gồm đơn thuần một hình vuông giản dị, trong khi những cấu trúc đá của Khmer và Java thường cầu kỳ và phức tạp hơn rất nhiều. Tính đa dạng trong những thiết kế không gian và mô hình kiến trúc phản ánh những dị biệt của tâm thức nghệ thuật: chúng là sản phẩm của “tri thức cộng đồng” đặc thù của từng nhóm sắc tộc và của xã hội cổ đại ở Đông Nam Á.

Bản đồ châu Á vào năm 800 CN bao gồm vương quốc Champa và các nước trong khu vực.
Bản đồ châu Á vào năm 800 CN bao gồm vương quốc Champa và các nước trong khu vực.

Mặc dầu nghệ thuật Chàm và Đông Nam Á đều được tiếp biến từ những nền nghệ thuật ở Ấn Độ, mỗi nền văn minh Đông Nam Á đều sở hữu ngữ pháp và từ vựng riêng để diễn đạt cá tính nghệ thuật và tư chất thẩm mỹ của chúng. Thiên về cấu trúc địa lý và tộc người, chúng ta có thể dễ nhận ra đâu là những khác biệt chính giữa những vương quốc này: vương quốc Champa gần gũi với biển, trong khi vương quốc Khmer thuộc về nội địa.

Cư dân bản địa sống trong vùng này thuộc về nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau cùng cộng cư trong mỗi vương quốc. Ví dụ, cư dân Chàm cấu thành bởi hai ngữ hệ Austronesian/Nam Đảo (nhánh Mã Lai-Đa Đảo) và Austro-Asiatic/Nam Á (nhánh Môn-Khmer), trong khi cư dân Khmer đa phần thuộc ngữ hệ Nam Á. Thẩm mỹ tộc người của cư dân bản địa đã tinh lọc những nền nghệ thuật Hindu và Phật giáo đến từ Ấn Độ, đúc kết nên bộ từ vựng nghệ thuật riêng biệt và những cảm thụ nghệ thuật riêng tư cho mỗi nền nghệ thuật của Đông Nam Á.

JW: Đền thờ Champa không chỉ nổi tiếng vì những ngọn tháp gạch của chúng mà cũng vì những mảng điêu khắc trang trí được chạm thẳng vào gạch. Mong ông chỉ ra cặn kẽ?

TKP: Công nghệ xây dựng đền - tháp Chàm rất diệu kỳ. Gạch được nung ở nhiệt độ khoảng 850 độ C, nên dễ hoàn tất. Để kết những viên gạch lại với nhau, người Chàm dùng một loại nhựa cây gọi là dầu rái, nó được lấy từ thân cây, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb. (được trồng phổ biến ở miền Trung và bán đảo Đông Dương). Đền - tháp được xây chừa khoảng trống giữa hai vách tường dày; chúng được xây dần lên cao, rồi hình thành một hàng gạch cuối nơi đỉnh tháp. Tường tháp rất dày - khoảng 1,5 - 2 mét - tạo nên phần chịu lực tuyệt hảo để nâng đỡ mái tháp và làm vững nền móng kiến trúc.

Người Chàm rất kinh nghiệm trong việc kết hợp gạch và sa thạch trên cùng một công trình; ở một vài nhóm tháp, hai thứ vật liệu này vẫn còn kết chặt qua cả ngàn năm! Sau khi đã hoàn tất việc xây dựng cho ngôi đền, những nhà điêu khắc chạm trổ các kiểu thức hoa văn trực tiếp vào tường gạch. Những kiểu hoa văn sáng tạo qua các thời kỳ đã hình thành các phong cách nghệ thuật khác nhau từ thế kỷ 7-16...

JW: Tại sao Mỹ Sơn được chọn để xây và tại sao những triều vua kế tục lại ưa chuộng và bảo trợ cho những ngôi đền tuyệt đẹp của di tích này?

TKP: Mỹ Sơn là thánh địa hoàng gia nơi vị thần-vua (devaraja) - một hóa thần của thần Siva, đấng bảo hộ các vương triều Champa - được thờ phượng. Thánh địa này được khởi dựng dưới triều vua Bhadravarman hay Phạm Hồ Đạt (380-413) vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4. Nó được dựng trong một thung lũng kín đáo với không gian thâm mật, dưới chân ngọn núi thiêng Mahaparvata. Đỉnh của ngọn núi thiêng có hình dáng lạ tựa như mỏ của chim thần Garuda - vị thần của sự bình an trong đạo Hindu. Ngày xưa, thương thuyền đi lại dọc theo bờ biển trông thấy ngọn núi này như một chỉ dấu để biết rằng họ đã đến gần cảng - thị quan trọng là Hội An hay Đại Chiêm Hải Khẩu, là trung tâm thương mại lớn nhất của Champa.

Mỹ Sơn là di tích kiến trúc tôn giáo quan trọng nhất của Champa, khoảng 70 ngôi tháp được xây dựng liên tục từ cuối thế kỷ thứ 4-13. Di tích này lưu giữ những kiến thức quan trọng về văn hóa nghệ thuật cũng như lịch sử kinh tế và xã hội của vương quốc. Nó đã hấp dẫn nhiều thế hệ học giả kể từ khi được tái phát hiện bởi người Pháp vào cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên, những hiểu biết của chúng ta về di tích này vẫn còn hạn chế vì thiếu những cuộc khai quật khảo cổ học. Chúng tôi trông đợi vào những cuộc khai quật đầy hứa hẹn trong tương lai sẽ phát quật được nhiều tác phẩm thú vị và thúc đẩy những nỗ lực để bảo tồn di tích này.

JW: Có phải những di tích như Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang cũng là những nơi hành hương không?

TKP: Vâng. Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang là hai thánh địa Hindu của hoàng gia - một ở phía bắc vương quốc và một ở phía nam - nơi giới quý tộc và thương nhân Chàm đã đến hành hương. Hai thánh địa này phản ánh tín ngưỡng vũ trụ lưỡng nghi của các vương quyền Champa: những người hành hương tại Mỹ Sơn thờ phượng đấng thần-vua, Siva, tượng trưng cho nguyên tố nam; trong khi tại Pô Nagar Nha Trang, những người hành hương thờ phượng nữ thần, Bhagavati (vợ thần Siva, hay còn gọi là “Yang Inư Pô Nagar là Thần Mẹ Xứ Sở”), tượng trưng cho nguyên tố nữ.

JW: Chân thành cảm ơn ông đã chia sẻ những hiểu biết của ông về một nền văn hóa thật thú vị.

ĐNCT

;
.
.
.
.
.