.

Sóng nước Đà giang - Kỳ 3: Sông về cửa tấn Cu Đê

.

Nếu như phần lớn sông ngòi ở khu vực phía nam thành phố Đà Nẵng thông dòng với nhau rồi tập trung rót nước qua cửa sông Hàn theo hướng nam-bắc, thì mạng lưới các con sông ở địa bàn phía bắc thành phố lại theo dòng Cu Đê đổ nước ra vịnh Đà Nẵng theo hướng tây-đông.

Bắt nguồn từ dãy Bạch Mã nối liền giữa vùng núi phía tây thành phố Đà Nẵng với tỉnh Thừa Thiên-Huế, con sông Bắc chảy dần theo hướng tây-đông trên địa bàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang. Nước của dòng sông Bắc còn được tiếp thêm sức bởi một chi lưu chảy từ phía bắc xuống là sông Cha Nay. Lưu vực sông Bắc còn nhiều cánh rừng hoang sơ được khoác lên vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã với những địa danh như Tà Lang, hố Giếng, lỗ Cối (thượng, hạ), thác Xếp, Nà Mùn, Đá Bò, khe Mun, thác Rễ, khe Giao... Ở khu vực sông Bắc có vàng sa khoáng.

Một đoạn sông Cu Đê ở hạ lưu (Ảnh KLS 8-2009) 

Ngay trên địa bàn xã Hòa Bắc, còn có một con sông khác ở phía hữu ngạn, mang tên sông Nam. Dòng sông Nam bắt nguồn từ phía tây, chảy qua những khu rừng có rất nhiều loại gỗ quý, rồi hợp lưu với sông Bắc tại vị trí cầu Sập thuộc thôn Giàn Bí, tạo nên dòng sông Cu Đê tiếp tục chảy ra biển. Tên cầu Sập xuất phát từ chỗ ở đây có một cây cầu đã bị sụp đổ từ hồi chiến tranh, nên trước đây dân địa phương cũng gọi luôn tên thôn là thôn Cầu Sập.

Lưu vực sông Nam và sông Bắc rất phù hợp cho việc hình thành các khu du lịch sinh thái. Đặc biệt, hai thôn Tà Lang, Giàn Bí của người Cơtu ở trên địa bàn này cũng là một điểm nhấn văn hóa rất đáng được bảo tồn và phát triển.

Từ chỗ nhập lưu của hai chi lưu sông Bắc - sông Nam, sông Cu Đê chảy theo hướng tây-đông, qua các xã Hòa Bắc, Hòa Liên thuộc huyện Hòa Vang rồi chảy về quận Liên Chiểu, đi qua ranh giới giữa hai phường Hòa Hiệp Bắc và Hòa Hiệp Nam để đổ nước ra vịnh Đà Nẵng tại cửa Nam Ô, cách chân đèo Hải Vân chừng 5km. Một số tài liệu cổ chép tên sông Cu Đê là sông Câu Đê, chẳng qua là do cách đọc khác âm trên cùng mặt chữ Hán mà thôi. Tổng chiều dài của sông Cu Đê tính từ vị trí bắt đầu ở xã Hòa Bắc về tới biển là 38 km, lòng sông rộng chừng 160-200m, diện tích lưu vực khoảng 426km2.

Sông Cu Đê chảy trên địa bàn xã Hòa Bắc đã góp phần tạo nên nhiều phong cảnh hấp dẫn ở vùng ven sông. Khởi đầu của dòng Cu Đê là vũng Bọt ở ngã ba sông. Xuống phía dưới là thác Ba, thác Dài rất thơ mộng. Tiếp đến là một cái vịnh nước khá dài và rộng, nước xanh ngắt với lòng sông khá sâu, có nhiều loài cá to sinh sống, ven bờ cây cối xanh um xỏa bóng che mát rượi dòng sông. Thượng nguồn sông Cu Đê có khá nhiều loài cá, trong đó chủ yếu là cá bám đá vây bằng, chình hoa, phao, chạch đá, chạch đuôi đỏ, bống đen, bống đá. Tiếp tục xuôi dòng, có một bãi sỏi rộng khoảng vài hécta nằm về phía hữu ngạn, với những lùm cây rù rì chen lẫn đá sỏi trông như một “thạch mộc trận”, gọi là Bến Sạn.

Khi chảy qua xã Hòa Liên (cũng thuộc huyện Hòa Vang), dòng Cu Đê còn được mang tên là sông Trường Định, do dân địa phương gọi theo tên thôn Trường Định nằm ở ven sông mà nên.

Trường Định là thôn thuộc xã Hòa Liên, có diện tích tự nhiên 1.071,11 ha, với 220 hộ dân và 983 nhân khẩu cư trú (số liệu thống kê tháng 9-2009). Địa thế Trường Định một bên là núi, một bên là sông, hơi bị cách ly với bên ngoài nên thường được ví như ốc đảo. Nhưng từ tháng 10-2008, cầu Trường Định được khởi công xây dựng ở ngay bến đò thôn, đến nay đã vào giai đoạn gần kết thúc, nên thế ốc đảo sắp được phá vỡ, đúng như tên gọi Trường Định thể hiện mong muốn cuộc sống ổn định bền lâu.

Đất Trường Định là nơi ngày xưa chúa Nguyễn đã từng đóng quân, có hành cung Trường Định. Tại thôn Trường Định, còn nhiều dấu vết của hành dinh Bến Giá thời chúa Nguyễn. Trên địa bàn xã Hòa Liên, thỉnh thoảng dân địa phương còn tìm thấy những hiện vật liên quan việc đóng quân dưới thời chúa Nguyễn như mâm đồng rồng 5 móng, độc bình cổ, ấm chén, kiếm cổ. Tên gọi một số địa điểm ở xã Hòa Liên vẫn còn ghi dấu về thời kỳ đó như Vườn Đồn, Vườn Lẫm (kho), Vườn Hành (hành cung). Trong Đồng Khánh dư địa chí cuối thế kỷ XIX, Trường Định là một trong 31 xã thôn thuộc tổng Hòa An Thượng, huyện Hòa Vang.

Trong thời chống Pháp và chống Mỹ, Trường Định là mảnh đất thường xuyên gánh chịu bom đạn ác liệt, nhưng vẫn chuyên nuôi giấu các chiến sĩ cách mạng. Quân địch đã nhiều lần kéo đến Trường Định càn quét, quấy phá, bắt bớ, đàn áp nhân dân. Địa phương này là đơn vị anh hùng của huyện Hòa Vang.

Sông Cu Đê ở đoạn cầu Nam Ô (Ảnh KLS 8-2009) 

Rời huyện Hòa Vang, dòng Cu Đê tiếp tục xuôi về địa bàn quận Liên Chiểu. Tại đây, sông còn nhận được một số chi lưu nhỏ ở vùng hữu ngạn. Do hạ lưu sông Cu Đê đi qua làng Thủy Tú cũ (nay là các tổ dân phố 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37 thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu), nên từ xưa dân địa phương gọi đoạn này là sông Thủy Tú. Ở đây gần biển, nên trong sông đã xuất hiện một số loài cá từ vùng cửa sông di cư vào như cá căng, cá mú và đặc biệt có cả những loài quý hiếm như cá chình hoa, cá ngựa xám.

Ngày trước, đàn ông làng Thủy Tú sinh sống bằng nhiều nghề, cả việc lên rừng lẫn xuống biển, nhưng nhiều nhất là khai thác thủy sản trên dòng Cu Đê. Phụ nữ Thủy Tú thường đảm nhận việc tiêu thụ sản phẩm thu được ở các chợ quanh vùng, và mua sắm vật dụng sản xuất, sinh hoạt cho gia đình.

Dòng Cu Đê chảy hết trên phần đất ngang qua các làng cũ Thủy Tú (bờ bắc), Xuân Dương (bờ nam, nay là các tổ dân phố từ số 39 đến số 47 thuộc phường Hòa Hiệp Nam), Nam Ô (nay là các tổ dân phố từ số 21 đến số 38 thuộc phường Hòa Hiệp Nam) thì đổ ra vịnh Đà Nẵng. Nơi sông đổ ra biển gọi là cửa Cu Đê. Tọa độ vùng cửa sông Cu Đê được xác định là 16°7’25” vĩ độ bắc và 108°8’37” kinh độ đông. Cửa sông Cu Đê còn được gọi là cửa sông Thủy Tú, cửa biển Nam Ô, nhưng không phổ biến.

Vùng cửa sông Cu Đê (Ảnh KLS 8-2009) 

Thời Nguyễn ở thế kỷ XIX, chiều rộng cửa Cu Đê đo được 25 trượng (khoảng 106 mét tây, mỗi trượng đo chiều dài tương đương 4,25m), thủy triều lên sâu 4 thước 5 tấc (1,91m), thủy triều xuống sâu 3 thước (1,27m). Tại đây, đầu triều vua Gia Long đã cho lập “tấn biển” Cu Đê, đặt một viên “thủ ngự” và cắt cử “thủ dân” để tuần phòng ngoài biển, xét hỏi việc đi lại. Đến năm 1851, tấn Cu Đê bị cho là “cửa biển nông hẹp, ngoài biển đã có tấn Đà Nẵng”, vì vậy vua Tự Đức bỏ tấn Cu Đê, rút viên tấn thủ đi nơi khác, còn thủ dân thì giao về làng chủ quản ghi vào sổ đinh để làm sai dịch.

Dù chỉ khoảng nửa thế kỷ tồn tại với tư cách là một tấn biển, nhưng cửa Cu Đê trở thành một phần của lịch sử hệ thống hải phòng ở vịnh Đà Nẵng, và tên gọi cửa tấn Cu Đê đã ăn sâu vào tâm khảm mọi người, là niềm tự hào từ bao đời nay của người dân vùng cửa sông phía bắc thành phố Đà Nẵng.

NGUYỄN QUANG TRUNG TIẾN

;
.
.
.
.
.