.
Phương hay Thuốc quý

Khoai dái chữa rắn cắn

.

Báo SK-ĐS ngày 17-1-2015 có đăng bài viết “Chữa rắn cắn bằng cây thuốc lạ” của Đặng Nguyên Sơn, có kèm theo 2 ảnh với chú thích “cây thuốc chữa rắn cắn này vẫn chưa được định danh”.

Củ Khoai dái - Dioscorea bulbifera L. Ảnh: P.C.T
Củ Khoai dái - Dioscorea bulbifera L. Ảnh: P.C.T

Bài viết này chỉ xin được góp phần định danh và giới thiệu thêm công dụng của cây thuốc đó.

Theo tác giả bài báo, cây thuốc này do ông Nguyễn Văn Khoan ở làng Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị thừa kế kinh nghiệm của một người dân tộc Vân Kiều, đã chữa khỏi cho hàng trăm người bị rắn cắn.

Theo mô tả loài cây này thân dây leo, lá hình trái tim to bằng lá khoai tía, củ có lông như củ khoai từ. Về cách thức sử dụng, cây thuốc này dùng ở dạng còn tươi. Khi bị rắn cắn dùng lá nhai mịn đắp lên vết thương. Còn củ cắt lát mỏng khoảng 0,5cm, một lần dùng ba lát, nhai nuốt sống, ngày nhai ba lần vào buổi sáng trưa và tối. Nếu không có lá thì dùng củ nhai nuốt nước, xác đắp lên vết thương.

Nhìn kỹ 2 tấm ảnh của chính tác giả bài báo đăng kèm trong bài viết, tôi đã  xác định đó là cây Khoai dái hay còn gọi Củ dại, Khoai trời. Tiếng Hán gọi là Hoàng dược tử (黄 药 子 ). Tên khoa học  Dioscorea bulbifera L. thuộc họ Củ nâu - Dioscoreaceae.

Mặc dù không phải nhà thực vật học chuyên nghiệp, nhưng tôi dám định danh cây này, chẳng qua là nhờ một dịp tình cờ may mắn. Cách đây gần 1 năm, ngày mồng Một Tết Giáp Ngọ vừa rồi, đến thăm nhà anh Triêm, một thầy thuốc nam ở thị trấn Ái Nghĩa, tôi được tặng một củ khoai hơi giống củ khoai mỡ nặng gần một ký, kèm với đề nghị đem về trồng và định danh giúp, vì bản thân chủ nhà đào được trên núi mà không biết là cây gì.

Do củ đang nhú mầm sẵn, chỉ vùi phân nửa xuống đất, chẳng bao lâu cây đã lớn rất khỏe,  tôi cắm chói cho leo lên cây vú sữa cao đến 5-6m. Sau một thời gian tìm tòi, tra cứu, tôi đã xác định được đó là cây Khoai dái (theo Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập II, tr.1207) hay Khoai trời (theo Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập III, tr.472).

Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam của TS.Võ Văn Chi, Khoai dái là cây leo sống lâu năm, có một thân rễ dạng củ to, với thịt củ màu vàng hay màu kem, thân nhẵn, tròn hay hơi có cánh, trơn bóng, màu tím, lá đơn, to tới 34 x 32cm, mọc so le, nhẵn, hình tim, có mũi nhọn. Ở nách lá có những củ con, mà ta gọi là dái củ, hình trứng hay hình cầu có kích thước thay đổi, có khi rất to, đường kính tới 10cm. Hoa mọc thành bông thõng xuống; bao hoa 6; nhị 6, chỉ nhị đứng. Hoa cái nom giống hoa đực. Quả nang, mọc thõng xuống, có cánh. Cây ra hoa vào tháng 7-10; có quả tháng 8-11.

Tính vị, tác dụng: Củ của những cây hoang dại có thịt đắng, màu vàng chanh hay kem, gây buồn nôn; có khi còn có chất dịch màu tím nhạt, có độc. Do trồng trọt mà các tính chất này của củ biến mất đi và củ trở thành ăn được. Trong y học cổ truyền, thường dùng dái củ. Nó có vị đắng, tính bình; có tác dụng tiêu viêm, tiêu sưng, long đờm, cầm máu.

Cách dùng: Người ta thường lấy dái củ luộc kỹ ăn. Dái khoai có độc nhưng khi rửa nhiều lần và luộc kỹ thì chất độc bị loại đi. Bột khoai dái cũng tương tự như bột ngũ cốc và bột gạo. Củ ở dưới đất không dùng ăn nhưng cũng dùng làm thuốc.

Khoai dái thường dùng trị bướu giáp (sưng tuyến giáp trạng); viêm hạch bạch huyết do lao; loét dạ dày và đường ruột; nôn ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, chảy máu tử cung. Dái củ có thể dùng chữa ho gà và dán hai bên thái dương chữa đau đầu, mài với nước uống gây mửa, giải được chất độc của thuốc. Liều dùng 10-15g, sắc uống, nếu là loét ung thư, có thể dùng liều cao, tới 30g. Dùng ngoài trị đinh nhọt, rắn cắn, chó dại cắn. Ở Campuchia, người ta dùng củ trị rối loạn tuần hoàn.

Ở Ấn Độ, dái của những cây mọc hoang dùng đắp các vết loét và dùng trong uống lẫn với cumin (thì là Ai Cập), đường và sữa trị trĩ, giang mai và lỵ. Bột dái củ lẫn bơ dùng trị ỉa chảy. Ở Trung quốc, theo Tân biên Trung y học khái yếu, củ dùng trị loét thực quản, loét dạ dày, sưng tuyến giáp, nôn ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam, chảy máu dạ con, nhọt độc, rắn cắn, chó dại cắn. Dái củ trị viêm phế quản cấp và mạn và hen suyễn.

Đơn thuốc:

1. Bướu giáp: Dùng 200g củ, ngâm vào 1.000cc rượu trắng trong một tuần, chiết lấy nước. Ngày uống 100ml rượu, chia làm 3-4 lần.

2. Thổ huyết, ho khạc ra máu, chảy máu mũi: Dùng 8-16g củ khô sắc nước uống (dùng dái củ tốt hơn).

3. Mụn nhọt sưng tấy, rắn cắn, chó dữ cắn: Giã củ tươi, vắt lấy nước cốt uống, bã đắp vào chỗ đau.

4. Ung thư dạ dày, thực quản: Lấy củ tươi cạo sạch vỏ, thái lát, phơi khô, tán thành bột uống mỗi ngày 16g, chia 2-3 lần, hoặc chế thành viên uống.

5. Giang mai, lở loét: Khoai dái 15g, Thổ phục linh 12g, sắc uống thay trà, mỗi ngày 1 thang.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.