.
KỶ NIỆM 50 NĂM ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN (23-10-1961 - 23-10-2011)

Người thuyền trưởng 9 lần vào Nam

Đường Hồ Chí Minh trên biển - Con đường lịch sử gắn liền với những chiến công oanh liệt của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ trên những con tàu không số năm xưa.
 
Trong số đó có một người thuyền trưởng đã 9 lần vượt biển làm nhiệm vụ chi viện cho miền Nam, đó là  thuyền trưởng Vũ Tấn Ích. Anh sinh ra ở một vùng quê Quảng Ngãi giàu truyền thống cách mạng, 18 tuổi vào bộ đội đánh Pháp, hòa bình lập lại tập kết ra Bắc và được chọn đi học sĩ quan Hải quân ở nước bạn. Năm 1958, anh về nước, được giao làm thuyền trưởng một tàu hải quân với hàm Trung úy.

Năm 1960, anh và một số đồng chí quê ở miền Nam được cấp trên giao nhiệm vụ vượt Trường Sơn bằng đường bộ vào chiến trường miền Nam, nghiên cứu nắm tình hình chiến trường sông biển, nhất là kế hoạch bố phòng của hải quân địch và tìm cách quan hệ với các vùng giải phóng ven biển. Biết rằng nhiệm vụ hết sức gian khổ, khó khăn, nhưng anh vui vẻ lên đường. Mấy tháng trời vất vả hành quân bộ, anh đã đến chiến trường Quân khu 5. Giữa năm 1962 anh được cấp trên gọi quay ra Bắc.
 
Lại mấy tháng vượt Trường Sơn và vinh dự được đồng chí Đoàn Hồng Phước – Đoàn trưởng giao nhiệm vụ làm thuyền trưởng 1 tàu không số, cùng với 12 cán bộ, chiến sĩ quê miền Nam khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để làm nhiệm vụ đặc biệt. Sau một thời gian chuẩn bị hết sức bí mật, khẩn trương, vào một đêm cuối năm 1962, đầu năm 1963, toàn đội được giao nhiệm vụ chuyển vũ khí vào Nam. Khi bước chân lên tàu, anh em mới biết rõ nhiệm vụ của mình phải làm gì. Dưới sự chỉ huy của anh, con tàu đã rời bến ra khơi. Đêm hôm ấy gió mùa đông bắc về rất mạnh, từng con sóng trùm lên phủ cả đài chỉ huy, mũi tàu luôn bị nước tràn qua, ở trong cabin anh chỉ huy con tàu thẳng hướng về Nam.
 
Lo âu, căng thẳng nhưng vẫn có những phút giây thú vị khi những chú cá chuồn bay qua boong tàu rơi xuống sàn góp phần thêm lượng thực phẩm cho các anh. Hồi hộp, lo lắng khi tàu vượt vĩ tuyến 17. Máy bay trinh sát và tàu tuần tra của địch luôn bám sát và phát tín hiệu hỏi tàu ta. Anh vẫn bình tĩnh cho tàu đi tiếp, vì trên tàu đã ngụy trang đầy lưới và cá khô bày la liệt. Có lúc địch áp sát, pha  đèn quan sát, anh cho anh em làm việc bình thường, cứ thế địch hết nghi ngờ rồi bỏ đi...

Sau một tuần vất vả, căng thẳng, anh đã đưa tàu đến gần bến Cồn Lợi, tỉnh Bến Tre. Lúc này tại cửa Bồ Đề, đồn địch bắn pháo sáng liên tục, các tàu đậu trên bến pha đèn sáng. Tình thế quá bất lợi vì tàu ta cách địch vài kilômét. Anh em một mặt sẵn sàng các phương án chiến đấu, mặt khác vẫn cho tàu tiến chậm vào bờ; khi tàu vào rất gần bờ nhưng vẫn không liên lạc được với bến, anh bình tĩnh cho tàu chuyển dần về phía nam, xa đồn địch và tiếp tục liên lạc với bến. Hơn hai giờ sáng mà vẫn không liên lạc được, anh hội ý chi ủy chớp nhoáng và ra quyết định : “Nếu gần sáng mà không liên lạc được với bến,  phải nhanh chóng cho tàu ra hải phận quốc tế, bất cứ giá nào cũng vào tìm bến cho bằng được”. Đang chờ đợi căng thẳng, trong ánh sáng tờ mờ thì phát hiện được một thuyền đánh cá của hai ngư dân đang thả lưới. Anh quyết định cho tàu cập mạn, mục đích là đề nghị họ dẫn tàu vào vùng giải phóng. Anh cho hai đồng chí quê Nam Bộ xuống thuyền dân hỏi: “Căn cước đâu?”, họ bảo: “Chiều nay Quốc gia và Giải phóng đánh nhau, hai anh em sợ quá xuống thuyền ra biển không mang theo”.
 
Nghe hai người trả lời, lòng anh nhẹ nhõm vì biết rằng có vùng giải phóng ở đây rồi. Anh liền nói lớn bằng chất giọng miền Trung : “Chúng tôi là tàu chở thuê cho bọn chủ, muốn tiếp tế số hàng này cho cách mạng, bà con bỏ lưới đưa chúng tôi vào bờ, sau này thành công họ sẽ đền bù”. Thế là họ đưa tàu ta vào Rạch Góc, bắt liên lạc với bến. Đồng chí Bông Văn Dĩa, chỉ huy bến mừng quá ôm hôn từng người và xúc động nói: “Trung tâm báo có tàu vào, anh em theo dõi nhưng thấy tàu to quá, tưởng tàu địch nên không dám liên lạc, nào ngờ các đồng chí đưa tàu to vào, mừng quá!”. Vượt qua biết bao gian khổ, tàu của thuyền trưởng Vũ Tấn Ích đã hoàn thành nhiệm vụ đưa 50 tấn vũ khí vào miền Nam an toàn và lập tức trở ra Bắc. Về đến Đồ Sơn, anh vinh dự được về Hà Nội dự họp rút kinh nghiệm, đồng thời cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ cho anh tiếp tục chỉ huy chuyến tàu thứ hai vào Nam, trong thời gian càng sớm càng tốt.

 Lần này tàu anh có nhiệm vụ chở 60 tấn vũ khí vào Bến Tre, nhưng trên đường đi khi đến vùng biển đông Vũng Tàu, bất ngờ tàu chết máy. Anh bình tĩnh tổ chức anh em tìm cách khắc phục, nhưng mãi vẫn chưa tìm ra nguyên nhân hỏng hóc. Tình thế quá bất lợi, anh mời họp chi bộ tàu khẩn cấp ra nghị quyết: “Thứ nhất: Dùng mọi hình thức ngụy trang hợp pháp để giữ bí mật, mọi cử chỉ của thuyền viên phải như một tàu đánh cá. Nếu địch phát hiện ra ta thì chiến đấu đến cùng rồi hủy tàu, kiên quyết không để rơi vào tay địch”. Hai là: “Nếu gặp tàu đánh cá thì tìm cách mua dầu vì ta có tiền miền Nam”. Sau nhiều ngày tàu lênh đênh giữa biển, anh em tìm ra nguyên nhân là do đường ống dẫn dầu bị thủng, dầu chảy ra tàu. Anh chỉ huy anh em khẩn trương sửa chữa và cho tàu bí mật vào bến. Ra đi đã gần hai tuần với nhiều vất vả, hiểm nguy nhưng vào bến gặp thuận lợi, được anh em đón tiếp hết sức cảm động, ai cũng rơi nước mắt. Bốc hàng xong, các anh còn được liên hoan một bữa với các món ăn Nam Bộ mà lâu rồi các anh không có. Khuya ấy, anh cùng đồng đội vượt biển trở ra miền Bắc, hoàn thành chuyến thứ hai đưa được 60 tấn vũ khí vào miền Nam.

Từ cuối năm 1964, Mỹ tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ, mở rộng đánh phá ra miền Bắc. Lực lượng tàu chiến của Hạm đội 7  đến vùng biển Việt Nam với số lượng lớn. Đặc biệt, sau vụ một tàu không số của ta bị lộ ở Vũng Rô, Hải quân Mỹ, ngụy phối hợp phong tỏa đường biển rất gắt gao. Nhiệm vụ vận chuyển chi viện miền Nam bằng tàu không số lúc này hết sức khó khăn. Nhưng với kinh nghiệm từng trải của người thuyền trưởng đã hai lần vượt biển thành công, anh vinh dự được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ tiếp tục vận chuyển vũ khí, hàng hóa chi viện miền Nam. Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” anh và đồng đội đã bất chấp khó khăn, nguy hiểm, dũng cảm, mưu trí, táo bạo đưa tàu vượt biển chi viện cho chiến trường miền Nam thêm 7 chuyến nữa… Tổng cộng, trong 9 lần vượt biển vào Nam, anh và đồng đội đã vận chuyển hơn 300 tấn vũ khí, đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam. 

Giờ đây, mặc dầu đã nghỉ hưu 30 năm nhưng anh vẫn còn nhớ rõ những kỷ niệm một thời trận mạc, góp phần làm nên kỳ tích về con đường Hồ Chí Minh trên biển – Con đường huyền thoại.

PHAN VĂN CÚC
;
.
.
.
.
.