.

Chuyện của xứ người

.

Những ngày dừng chân ở Mátxcơva, chúng tôi được đưa đi thăm Bảo tàng Lép Tônxtoi. Bảo tàng nằm trong một khuôn viên không mênh mông như tôi hình dung, nhưng vô cùng thơ mộng và đặc biệt yên tĩnh. Chỉ có tiếng dương cầm thánh thót vang lên ở khắp khu vườn, qua những chiếc loa chòi lên từ thảm cỏ, hoặc cắm lẫn trong những lùm cây.

Bàn làm việc của Doxtoiepxki.
Bàn làm việc của Doxtoiepxki.

Giống như bất cứ bảo tàng danh nhân nào ở Nga, Bảo tàng Lép Tônxtoi chủ yếu bày những hiện vật gắn với cuộc đời của đại văn hào. Nó tất nhiên là gây tò mò. Đó là bộ bát đĩa, thìa nĩa mà sinh thời đại văn hào dùng trong những bữa cơm gia đình, vẫn bày biện nguyên xi trên chiếc bàn ăn như đang chờ chủ nhân bước ra từ phòng đọc.

Đó là chiếc áo dạ sờn cổ mà qua đó có thể hình dung vóc dáng của Bá tước Tônxtoi. Đó là đôi giày cổ cao bằng da bò, có vài chỗ sứt chỉ do chính tay đại văn hào khâu lại - ấy là nghe nói thế. Cũng nghe nói thì tác giả của kiệt tác Chiến tranh và hòa bình còn tự tay sửa chiếc xe đạp mà cụ vẫn dùng để đi lại mỗi khi nó hỏng hóc.

Chiếc xe đó giờ là hiện vật vô giá. Trong số những kỷ vật còn có chiếc đàn dương cầm và một bộ đồ nghề bao gồm kìm, búa, kim khâu, đinh thúc ngựa…

Cây sồi trong khuôn viên bảo tàng  Lép Tonxtoi ở  Mátxcơva.
Cây sồi trong khuôn viên bảo tàng Lép Tonxtoi ở Mátxcơva.

Điều gây tò mò cho tôi hơn chính là những người được giao nhiệm vụ trông coi bảo tàng. Phần lớn (nếu như không muốn nói tất cả), họ đều là những người phụ nữ cao tuổi, to béo, đôn hậu, và hình ảnh đặc trưng của những người phụ nữ Nga mà nhà thơ Epstusenko từng viết: Dẫu nét mặt bị thời gian biến đổi/ Vẫn thuộc lớp người đẹp mê hồn của nước Nga xưa.

Cũng có thể đó là những hiện thân vĩnh cửu của Natasa lúc ở tuổi xế chiều với thân hình phục phịch, khi đã cho ra đời một đàn con. Nghe nói sinh thời Lép Tônxtoi rất đào hoa. Phụ nữ theo ông không đếm hết.

Không phải ai trong số họ cũng được ông yêu và có lẽ nhiều người tự nguyện đến với ông đã không đòi hỏi điều đó. Nhưng ông dành cả đời để ca ngợi họ, tìm cách vĩnh cửu hóa họ như những Phúc thần của nước Nga trong hàng loạt tác phẩm bất hủ.

Hóa ra ngần ấy năm, kể cả khi ông đã về với Chúa, họ vẫn quanh quẩn bên ông, vẫn rình để thấy ông, trong tay chiếc can, đi ủng cao cổ, đội mũ kiểu nông dân Nga (mặc dù ông là quý tộc) thả bộ nơi điền trang mênh mông mua bằng những đồng rúp vàng là tiền nhuận bút của những tiểu thuyết in dài kỳ, những truyện ngắn, những lời tranh luận về mọi vấn đề của trần gian.

Họ rình ông để được ông để mắt đến. Và lạy giời, nếu lại là một buổi chiều mà Bá tước vừa hoàn tất những trang diễm tình như khi viết về nàng Anna thì còn hơn cả được giời cho lộc.

Vâng, tôi vẫn đang kể về những người người đàn bà Nga phúc hậu nhưng cực kỳ nghiêm khắc, ngày đêm thay nhau bảo vệ những hiện vật từng gắn với đại văn hào của họ. Họ làm hoàn toàn tự nguyện, nghĩa là không hề đòi công xá, thù lao.

Họ đứng để hướng dẫn du khách, để canh chừng đảm bảo không một ai bước qua ranh giới được căng dây, không một ai chạm được tay vào bất cứ hiện vật nào. Không có ngoại lệ. Không có nhân nhượng, dù bạn bảo vừa từ nửa bên kia của trái đất đến, dù bạn chứng minh mình ngưỡng mộ Lép Tônxtoi đến thế nào chăng nữa.

Tuyệt đối không. Đừng nằn nì mà mất công, vô ích. Bởi vì họ đang bảo vệ những thứ mà người tình tuyệt vời nhất của họ để lại, những tài sản của nước Nga cho đến muôn sau.

Chiếc cặp Doxtoiepxki đựng bản thảo.
Chiếc cặp Doxtoiepxki đựng bản thảo.

Mặc dù biết chút ít tiếng Nga để hiểu rằng, muốn chụp ảnh hiện vật phải trả tiền, nhưng tôi vờ giả ngố coi như không biết. Nhưng khi tôi mới chỉ vừa giơ máy lên thì ngay lập tức phải hạ xuống bởi ánh mắt cảnh cáo của bà già bảo vệ.

Có cảm giác nếu tôi cứ bấm máy, sẽ bị khóa tay tống ra ngoài! Bà nói với phiên dịch, yêu cầu tôi mua vé. Giờ là lúc tôi tò mò. Chụp cái áo: 300 rúp; chụp cái đàn: 500 rúp; chụp cái ấm 300 rúp; chụp cái bậc cửa cũng vài trăm rúp… mà phải tắt đèn Flash. Tại thời điểm tôi ở thủ đô nước Nga, một rúp quy ra tiền Việt khoảng 700 đồng. Điều đó có nghĩa, mỗi lần giơ máy chụp một hiện vật nào đó gắn với Lép Tônxtoi, tôi phải bỏ ra từ  210.000 - 350.000 đồng.

Để có bộ ảnh đầy đủ những hiện vật trưng bày tại bảo tàng, tôi sẽ phải mất số tiền đủ để đi thêm một chuyến du lịch thứ hai sang nước Nga. Vấn đề không đơn thuần chỉ là tiền. Vấn đề ở đây là giá trị thật của một nền văn hóa. Chẳng thứ gì trên đời sẵn có, hoặc được tạo ra một cách dễ dàng để có thể biếu không! Khi văn hóa cũng tham gia công cuộc làm giàu đất nước, nó không chỉ được bảo vệ tốt hơn, bền vững hơn mà còn cổ vũ cho sự công bằng.

Trở về, trong vô số những điều mới lạ thấy ở nước Nga, lạ lùng thay, những gì tôi chứng kiến ở Bảo tàng Lép Tônxtoi cứ khiến tôi bận tâm nhiều hơn cả. Bao giờ cho những điều tương tự có được ở những khu lưu niệm danh nhân nước Việt?

Bao giờ cho mỗi kỷ vật gắn với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nam Cao… được người Việt trọng vọng, gìn giữ, định giá cao chất ngất và hãnh diện khoe với người nước ngoài như những gì tôi thấy ở Bảo tàng Lép Tônxtoi?

TẠ DUY ANH

;
.
.
.
.
.