.

Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng

.

Huỳnh Thúc Kháng là chí sĩ, học giả, thuở nhỏ ông có tên là Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên (còn có nhiều bút danh khác: Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch, Khỉ Ưu Sinh, Xà Túc Tử, Thức Tự Dân, Ưu Thời Khách, Hải Âu, Ngu Sơn, Khách Quan). Ông quê ở làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Nhà lưu niệm cụ Huỳnh
Nhà lưu niệm cụ Huỳnh

Tổ tiên vốn là người miền Bắc vào lập nghiệp xứ Quảng khoảng thế kỉ XIV,XV (Trần, Lê), sinh sống bằng nghề nông. Tằng tổ cày ruộng đọc sách, vào đời Gia Long bản triều được liệt vào hạng người hiền. Ông tổ ( húy Văn Lập) người tiếp thu được tổ âm sau này thành nhà nông hào, trong thôn nhiều  người mến phục.

Thân phụ ông (húy Phương) tên là Huỳnh Tấn Hữu, mẹ là Nguyễn Thị Tình người làng Hội An cư ngụ làng Phú Thị ( nay thuộc thôn Hội An, xã Tiên Châu, huyện Tiên Phước), em ruột phó bảng Nguyễn Đình Tựu. Bà là người có dòng họ với những người từng lều chõng được sống trong cái vinh nhục của chế độ khoa cử ngày trước.

Xuất thân trong một gia đình ở nông thôn trải qua nhiều đời vẫn là nhà nông khuôn mẫu. Nhưng ngày sau trong làng có người đi học xa nếm mùi khoa cử, thân sinh Huỳnh Thúc Kháng lúc bấy giờ tuy còn nhỏ tuổi cũng biết hâm mộ cái vinh của khoa cử bèn xin phép gia đình tìm thầy cầu chữ. Do đó, các trường trong tỉnh ông đều biết qua, nhưng nhiều phen lều chõng vẫn lạc đệ.

Từ đó thân sinh ông trở về cày ruộng, đọc sách làm người biết chữ trong làng trọn đời vui với ruộng vườn, khuyên dạy con trẻ. Thêm nữa, hai người anh trai của Huỳnh Thúc Kháng tuổi tuy còn nhỏ, đã nổi tiếng thông minh nhưng bất hạnh chết sớm lúc chưa được hai mươi. Các biến cố gia đình đến dồn dập càng đè nặng trên người ông. Vả lại, thêm nỗi thúc giục của thân phụ đều trút vào làm cho Huỳnh Thúc Kháng phải cố gắng chu toàn nhiệm vụ nặng nề, cao cả của gia đình giao phó.

Do không xuất thân trong một gia đình khoa bảng, bình trung ông chỉ là một người sinh ra trong một gia đình thuần nông nghiệp. Thân phụ tuy nhiều phen đèn sách mà vẫn ôm mộng về không. Cho nên sự thành công của nhà nho Huỳnh Thúc Kháng phần lớn tự khối óc của chính ông, cùng với biến cố gia đình thúc giục. Là con thứ trong gia đình, nhưng sự thật ông lãnh trọng trách của một người con trai duy nhất trong dòng họ (hai anh trai chết sớm). Từ đó gánh nặng “khoa cử”, “nối dõi” không bao giờ rời trên vai con người nhỏ gầy Huỳnh Thúc Kháng, cho đến ngày thực sự dấn thân vào sự nghiệp cách mạng.

Do vậy, ông phải làm việc với một khả năng “trải trên 20 năm như một ngày theo khuôn khổ nghiêm huấn không lúc nào sai”.  Những năm tháng ấu thơ, ông được dìu dắt và dạy dỗ bởi người cậu ruột của mình là Tế tửu quốc tử giám Nguyễn Đình Tựu ( người thôn Hội An xã Tiên Châu).

Thế cho nên tuy mới mười ba tuổi ông đã biết làm văn trường ốc, năm 16 tuổi đi thi Hương, đầu còn “để chỏm” và từng nổi danh là mọt trong ba người hay chữ nhất ở kinh đô Huế vào những năm đó (cùng với Trần Quí Cáp, Phạm Liệu).

Tuy nổi tiếng thông minh, nhưng với lối kén chọn nhân tài ngày trước, Huỳnh Thúc Kháng phải nhiều phen lạc đệ, mãi đến năm 29 tuổi ( 1904) mới đỗ Tiến sĩ. Và cũng từ đó ông bắt đầu học chữ  Quốc ngữ , phát động phong trào Duy Tân (Mậu Thân 1908) mà ông là một trong ba kiện tướng dẫn đạo. Do đó ông bị thực dân Pháp làm tội, đày ra Côn Lôn đến năm 46 tuổi (1921) mới được phóng thích.

Năm Bính Dần (1926), ông đắc cử Dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung Kỳ. Trong 3 năm hoạt động ở Viện, ông cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi chống lại viên Khâm sứ Pháp Jabouille. Ông từ chức và sáng lập tờ báo Tiếng Dân, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế (1927-1943).

Thời gian đại chiến thế giới thứ hai, phát xít Nhật và đám thân Nhật toan mua chuộc ông, nhưng không lung lạc được ông. Sau Cách mạng tháng 8-1945, ông nhận chức Bộ trưởng bộ Nội vụ chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và trong khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, ông được trao Quyền Chủ tịch Chính phủ (1946). Ông cũng là một sáng lập viên và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Bắt đầu cuộc toàn quốc kháng chiến, ông được chính phủ đặc phái vào Liên khu 5 công tác...  

Tuổi già, lâm bịnh, ông mất tại Quảng Ngãi ngày 21-4-1947, thọ 71 tuổi. Huỳnh Thúc Kháng mất nhằm lúc cuộc kháng chiến của toàn dân vào thời kì gay go nhất. Sự tham gia kháng chiến của ông là một bài học lớn đối với người tri thức Việt Nam vào giai đoạn cam go của lịch sử chống xâm lược.Hồi ông đậu cử nhân năm 1900 Hà Đình Nguyễn Thuật (Thượng thư; Tổng tài Quốc sử quán) có câu liễn chúc ông:

“Ổn bộ thượng vân cù văn trận hùng sư khẩn nhượng nguyên nguyên du tranh trưởng;

Thịnh danh quy nguyệt đán từ lâm hậu khởi quả nhiên Huỳnh giang hạ vô song.”

Nghĩa:

Vững bước đi thi, hùng sư văn trận lớn nhường Nguyễn nguyên du tranh chức trưởng;

Lừng danh trở về đầu tháng, văn chương trác tuyệt, đúng sông Huỳnh lớn vô song.

Với nhiều công lao, thành tích to lớn, ngày 27 tháng 12 năm 2012, Chủ tịch nước quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng cho cụ Huỳnh Thúc Kháng. Và vào ngày 15 tháng 4 năm 2013, tại lễ truy tặng Huân chương Sao Vàng được tổ chức long trọng tại huyện Tiên Phước, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đích thân trao tặng Huân chương Sao Vàng cao quý cho người thân của cụ.

Đời tư

Về đời tư, Huỳnh Thúc Kháng lập gia đình rất sớm ( năm 20 tuổi-1895). Vợ ông là bà Nguyễn Thị Sắt, con gái út một nhà vọng tộc thuộc làng Đại Đồng nơi ông trọ học lúc nhỏ ( bà Sắt là em vợ Phan Văn Cừ, ông Cừ là anh ruột Phan Châu Trinh).

Bà Sắt sinh năm 1881, quê làng Đại Đồng, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Bà về làm vợ Huỳnh Thúc Kháng năm 1895. Đến năm 1903, ông bà sinh con gái đầu lòng đặt tên là Huỳnh Thị Xuân Lan (tức cô Yển), năm 1908 ông bà sinh người con thứ hai tên là Huỳnh Thị Thu Cúc ( tức cô Kình ).

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao Huân chương Sao Vàng cho người thân cụ Huỳnh
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao Huân chương Sao Vàng cho người thân cụ Huỳnh

Bà Xuân Lan sau lập gia đình với một người con trai cùng huyện tên là Lê Bá Khải, sinh được một con trai tên là Lê Thứu. Năm 1954 ông Thứu tập kết ra Bắc. Bà Xuân Lan mất tháng 12 năm 1930.

Bà Thu Cúc sinh năm 1908, năm 18 tuổi ông Huỳnh Thúc Kháng “gả” cho ông Lê Nhiếp ( người làng Võ Xá huyện Quế Sơn), nhưng đến năm 19 tuổi bà Thu Cúc qua đời nhằm tháng 08 năm 1927. Ông Lê Nhiếp sau này có vợ ( rể Phó bảng Nguyễn Đình Hiến bạn ông Huỳnh) nhưng vẫn được Huỳnh Thúc Kháng xem như con rể. Ông Nhiếp là nhân viên báo Tiếng Dân (1927-1943) và sống kề cận Huỳnh Thúc Kháng mãi tới năm 1947.

Năm 1924, Huỳnh Thúc Kháng cưới thêm một bà vợ nữa, nhưng bà này sống chung với ông vẫn không có con. Cho nên, trước sau ông vẫn chỉ có hai người con gái trên. Sau khi hai người con qua đời, cuộc sống gia đình ông rất hiu quạnh, đời sống tình cảm khá u buồn. Do đó có lần ông tâm sự ”(tôi) không còn ngăn được dòng nước mắt vì hai trẻ đều bỏ già đi sang thế giới khác”.

Sau này, khi ở Côn Đảo (1909) và Huế (1939) hồi tưởng lại đời sống với vợ con, ông đã bồi hồi xúc động viết về người vợ yêu quí của mình:

“ Vô duyên giá tác cuồng sanh phụ

Tân khổ lao lao độc tự liên.

Trung quị tân phiền cung khách soạn

Lãng du phí tận điển y tiền

Phong hầu tái ngoại ứng hư thoại,

Hóa thạch sơn đầu bất ký niên.

Cương bả nhàn sầu vấn minh nguyệt

Vân tăng vũ đổ kỷ hồi viên.

Dịch thơ :

Rủi ro khéo gặp chồng khùng

Nhọc nhằn nhiều nỗi, cam lòng đắng cay

 

Trong nhà khách khứa liền ngày

Bao nhiêu tiền bạc một tay tiêu xài

Phong hầu ra việc nói chơi

Đã trông chồng nọ, một đời đã cam

Sầu riêng thử hỏi trăn rằm

Mây mưa ghen ghét mấy năm lại tròn.

Hoặc, viết thơ thăm hai con :

Thê tuyệt thông thông biệt nhỉ tình

Nhứt tài lục tuế nhứt sơ sinh

Hài đề chi tánh tri tư phụ

Giáo dục tiền đồ nhứt ủy khanh.

Nữ học tân triều thông quốc ngữ

Tiêu Đồng cựu khúc thiệu gia thanh.

Ủy tình khởi tất chân nam tử

Quân kháng Trung gia tỉ muội hàng

Dịch thơ:

Vội vàng rẽ bước ra đi.

Đứa vừa sáu tuổi, đứa thì mới sanh.

Nhớ cha trông ngất trời sanh

Dạy nuôi nhờ có mẹ lành gắng công.

Bằng nay Quốc ngữ học thông

Tiếng nhà may nối Tiêu Đồng khúc xưa

Chưa trai thì gái cũng vừa

Chị em Trưng nữ tiếng giờ còn thơm !

Nỗi niềm chua xót về gia đình, con cái, khi cảm hoài hai bài thơ trên, ông đau buồn viết:

“ Đứa con gái đầu mới mười sáu tuổi, đứa sau tôi bị bắt tháng hai, mà nó tháng 7 mới sinh (1908), kế tháng 8 thì tôi bị đày ra Côn Lôn. Nay (1939) đọc bài thơ này không còn ngăn được dòng nước mắt, vì hai trẻ đều bỏ già sang thế giới khác cả! Đứa lớn được một trai, cháu hiện ở với tôi, cho đi học” (tức ông Lê Thứu vừa nói ở trên).

Sau khi ở Côn Lôn về (1921 -1926), ông vẫn sống tại Thạnh Bình, ông bà vốn có hai người con gái và không có thêm người con nào nữa. Nên bà Huỳnh Thúc Kháng mới “cưới” cho ông thêm một bà nữa để “có con nối dõi” như vừa nói ở trên. Việc ấy xảy ra năm 1924. Trong Niên Phổ ( Tự truyện) ông ghi rõ: “Năm này (1924) nội tử cưới thứ thất cho tôi”  (Hồ Thị Chưởng, người trong làng).

Từ năm 1926, Huỳnh Thúc Kháng ra sống ở Huế, làm nghị viên và chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Tiếng Dân… Cả hai đều ở Tiên Phước thỉnh thoảng mới ra Huế. Năm 1933, bà Hồ Thị Chưởng ra Huế thăm ông, nhằm lúc ông vào Đà Nẵng, bà bị bịnh tả và mất ở Huế vào khoảng tháng 10 cùng năm, phần mộ bà nằm tại Ngự Bình (Huế), nhưng nay đã thất lạc vì chiến tranh. Bà Chưởng không có với ông người con nào cả.

Từ đó, bà Huỳnh Thúc Kháng thỉnh thoảng ra Huế, nhưng vẫn sống và làm nông tại Tiên Phước đến khi qua đời.

Mộ cụ bà thân sinh (trái) và mộ vợ cụ Huỳnh tại xã Tiên Cảnh
Mộ cụ bà thân sinh (trái) và mộ vợ cụ Huỳnh tại xã Tiên Cảnh

Năm 1947, bà Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Hội trưởng Hội mẹ chiến sĩ tỉnh Quảng Nam, cơ quan đóng tại Tiên Phước. Đến ngày 7 tháng 6 năm 1953 ( nhằm ngày 26 tháng 6 âm lịch) bà qua đời, hưởng thọ 72 tuổi. Trong tang lễ bà, nhân danh Hội mẹ chiến sĩ tỉnh Quảng Nam, lúc ấy có câu đối điếu bà:

“ Ngoài bảy mươi tuổi nối gót theo ông, phú nhà cửa cho họ đương, khuất bóng hơi hương còn phảng phất.

Trong một tỉnh mất bà chị cả, hội chị em hàng binh sĩ, chia buồn giọt lệ những tuôn rơi”

Bà Huỳnh Thúc Kháng là một tấm gương kiên trinh, chịu khó, chịu thương của người đàn bà Việt Nam muôn thưở, mãi mãi là một hình ảnh đẹp đối với dân tộc. Bà đã làm tròn thiên chức cao cả của một người mẹ hiền, một người vợ đảm. Đó là một bài học muôn đời đối với phụ nữ nước ta và cũng là một nhân tố cao cả giúp Huỳnh Thúc Kháng sống và làm việc trọn đời một người chiến sĩ cách mạng tuyệt vời của tranh đấu sử nước nhà.

Cá tính Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng sinh ra và lớn lên trong một làng quê hẻo lánh thuộc miền “nguồn” Tây Nam xứ Quảng. Xuất thân từ một nhà nông ở thôn quê trong hoàn cảnh quê mùa, chung quanh đều rừng núi khô cằn. Thạnh Bình, một làng “nguồn” phía Tây thành phố Tam Kỳ.

Ngày nay, nhà nghiên cứu khoa học nhân văn muốn tìm thăm quê ông có thể đi bằng đường bộ từ Sài Gòn ra hoặc từ Hà Nội vào. Chúng ta có thể nghỉ chân tại thành phố Tam Kỳ rồi ngược lên hương lộ DT 616 ( trước là liên hương lộ số 9) để đến “chợ huyện” Tiên Phước, hay qua ngã Suối Đá lên dốc Rơm. Rồi từ đó ngược sông Tiên mới có thể thấy rừng quế, đồi tiêu, vườn chè Thạnh Bình nơi sản sinh ra con người “Vườn chè” ấy.

Thạnh Bình là một làng dân cư thưa thớt, ruộng đồi chỉ chiếm một phần nhỏ đất đai, còn bao nhiêu là rừng núi khô cằn. Nguồn lợi chính của huyện Tiên Phước trong những năm về trước và ngay cả gần đây đều trong cậy vào các thổ sản từ rừng núi mà có nhất là tiêu, quế, chè… Đây là miền cách trở mọi giao thông liên lạc với bên ngoài, nhân dân phải sống lặn hụp trong cảnh “sơn lam chướng khí”.

Từ khi mở mắt chào đời cho đến ngày nhắm mắt, Huỳnh Thúc Kháng vẫn sống nguyên vẹn với sinh hoạt của quê hương ông, nghĩa là trong hoàn cảnh “phác dã”.

Thạnh Bình là một làng như trăm làng khác của xứ Quảng, dầu cho ở đồng bằng, duyên hải đều có những sinh hoạt phong tục tương tự. Quảng Nam là vùng đất tương đối mới trong lịch sử Đại Việt. Nhưng đối với miền Nam thì cũ hơn. Nơi đây là “địa đầu” của các tiên triều, là cửa ngõ để dòm ngó phương Nam. Đã là cửa ngõ, đương nhiên người dân ở đây thấy trước mặt mình toàn là người đương đi, chớ ít ai đứng lại quan sát, nhìn ngắm mình.

Do vậy, con người xứ Quảng ít khi nào thấy tâm hồn mình có thể thanh thản. Sự ngừng nghỉ đối với dân Quảng Nam chỉ là một việc ảo tưởng. Thêm vào đó, phong tục đất đai…là động cơ thúc đẩy người dân trong xứ phải làm việc, suy nghĩ cho hợp với hoàn cảnh bên ngoài cũng như bên trong mới có thể hòa đồng được với thiên nhiên để sống còn.

Thêm vào đó, ngay từ nhỏ ông phải ngày đêm chăm chú vào học khoa cử với một khả năng thiên phú. Do đó, ông tự cho mình như thiếu tình cảm đẹp của cuộc đời hiến tặng một cách tự nhiên. Nghĩa là cốt tính quê mùa, thô kệch ngay thẳng có từ trong bào thai mẹ tại quê hương khô cằn đó. Như ông đã nói: “Tôi, một anh học trò gốc sanh trưởng nhà nông nghèo trong thôn quê, đã là cái hoàn cảnh phác dã thô vụng, khô khan quê kệch, gia dĩ trời phú ham mê về sự học, nữa đời người tôi, ngoài văn sách vở ra gần như không có gì gọi là mỹ cảm”. Phan Châu Trinh đã nhạo ông là “lão phác” và tặng ông một bức hoạt họa Huỳnh Thúc Kháng:

“Khách lai vô thoại chỉ đam thư” ( Khách đến không nói chỉ mê sách)

Ngay từ thưở nhỏ ông đã ham chuộng Hán học, theo khuôn mẫu thánh hiền Á Đông, cái tư tưởng khắc khổ của ba nguồn học thuyết (Nho, Phật, Lão) ngày đêm thường tiếp xúc. Cái công “khắc kỉ” thật là sâu dày nên lí trí nhiều khi lấn áp cả tình cảm thường tình, lâu ngày thành thói quen.

Trong cuộc sống thường ngày ông cũng rất thận trọng, đa nghi và kiên quyết nghiêm trang với người cũng như đối với chính mình. Những cá tính ấy được bộ lộ rõ rệt nhất là từ khi ông trở thành tù nhân sống 13 năm ở Côn Đảo và nhiều năm tháng sau này. Khi trở thành dân biểu, chủ báo thì cá tính ấy càng trở nên sâu sắc hơn, khi sống dưới chế độ có nhiều lừa mị. Cho nên trong việc dùng người ông chỉ tin dùng toàn người xứ Nghệ, xứ Quảng hay người yêu nước, kẻ có Hán học và biết kẻ đó không phản bội, hay kẻ lớn tuổi đã có nhiều va chạm với thực tế cuộc đời.

Đối với hạng thanh niên ham chơi, theo Âu học một cách mù quáng, đó chỉ là hạn “văn minh vỏ”. Ai có sống gần ông mới biết rõ ông là người khô khan, không niềm nở dù cho khách thân hoặc sơ đến thăm, ông vẫn có một cảm tình tự nhiên. Ít nói mà chỉ ngồi nghe người ta nói, cần lắm là cho ý kiến. Ai cần gặp ông để hỏi chuyện gì, chưa chắc lần đầu ông đã trình bày đầy đủ.

Trong những nhu yếu hằng ngày, ông rất giản dị, tiết kiệm. Nhiều người ở tòa soạn báo Tiếng Dân kể lại việc ăn uống của nhân viên cũng như của gia đình rất kham khổ, bữa ăn đạm bạc, cơm cá bình thường và thường xuyên có rau muống, muối mè. Nhiều người hỏi vì sao ông ăn uống kham khổ vậy, ông trả lời “còn sướng hơn ở tù nhiều”. Vả lại còn tiền để dành giúp người lỡ đường, hoặc người ở Nghệ vào, người ở Quảng ra, nhất là giúp cụ Sào Nam Phan Bội Châu.

Sống giữa kinh đô Huế làm Viện trưởng “Nhân dân đại biểu”, chủ nhiệm tờ báo tiếng tăm, nhiều khi nhận được giấy mời dự một bữa tiệc hay dạ hội ông đều từ chối, nếu không thì nhờ người khác đi thay mình. Vì ông ít thích tới đám đông tuy lòng vẫn muốn chỗ đông người và nhất là ông không uống rượu.

Việc tiết kiệm, giản dị của ông vừa trong phục sức, ăn uống. Ngày nào cũng như ngày ấy, vẫn chiếc quần trắng áo dài đen với chiếc dù lớn, đi bộ từ nhà riêng tới trụ sở tòa báo ở đường Đông Ba và chẳng bao giờ ông chú tâm đến cách ăn mặt. Nhiều khi ra đường quần ống cao, ống thấp đến nỗi ông còn dùng chiếc mũ nỉ mang từ Côn Đảo về.

Không những thế, suốt đời ông dù cho thực dân và tay sai cám dỗ, mua chuộc, ông vẫn khư khư với “cốt tính’ sẵn có của mình. Không thèm chạy theo lợi lộc, danh vọng như ông từng tâm niệm:

“Giàu sang lợi lộc đừng ham.

Chông gai cay đắng cũng cam một bề”

Theo ĐHTP


(Còn nữa)

;
.
.
.
.
.