KỶ NIỆM 200 NĂM NGÀY SINH ĐỖ THÚC TỊNH (20-2-1818 – 20-2-2018)

Đỗ Thúc Tịnh với tinh thần công vụ đặc trưng của nhân sĩ xứ Quảng

.

Đỗ Thúc Tịnh tự Cấn Trai, người xã La Châu, tổng Phước Tường Thượng, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng). Ông sinh vào giờ Tuất, ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (20-2-1818). Trước khi thi đậu tiến sĩ, ông có tên Đỗ Như Chương, tên, họ và chữ lót này phù hợp với danh tánh của cha ông: Đỗ Như Tùng. Nhờ thông minh hơn người và tinh thần hiếu học, Đỗ Thúc Tịnh đỗ tiến sĩ vào năm 1847. Điều đáng nói, nếu cha ông là “tú tài khai khoa” của Hòa Vang thì ông lại là “tiến sĩ khai khoa của Hòa Vang”. Một vị quan lớn gốc Quảng, là bạn tri kỷ với ông là cụ Phạm Phú Thứ, đã chép trong sách Giá viên toàn tập rằng: “Thúc Tịnh họ Đỗ, người cùng tỉnh (với ta). Ông người huyện Hòa Vang. Năm Đinh Mùi triều Thiệu Trị (1847) thi đỗ đồng Tiến sĩ”.

Đón nhận Bằng Di tích lịch sử cấp Quốc gia mộ cụ Đỗ Thúc Tịnh năm 2008. Ảnh: L.A.R
Đón nhận Bằng Di tích lịch sử cấp Quốc gia mộ cụ Đỗ Thúc Tịnh năm 2008. Ảnh: L.A.R

Năm Tự Đức thứ 3 (1850), Đỗ Thúc Tịnh được bổ làm tri phủ huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Được một thời gian ngắn, ông phải xin về vì mẹ đau nặng. Gia phả tộc Đỗ tại La Châu hiện còn, có chép: “Suốt ngày ông quanh quẩn dưới gối, chẳng muốn xa lìa mẹ một phút”. Sau 3 năm chịu tang mẹ, năm Tự Đức thứ 6, Đỗ Thúc Tịnh được bổ làm Tri phủ, phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Lúc bấy giờ, phủ Diên Khánh là nơi quan lại thoái hóa, trộm cướp hoành hành, cọp dữ chuyên rình bắt người qua đường, dân tình đói khổ, tiếng ta thán nổi lên khắp nơi. Cuốn Hòa Vang huyện chí chép rằng: Đỗ Thúc Tịnh đã đích thân đốc suất dân làng săn bắt cọp dữ, sửa sang đường sá. Sau thời gian ngắn cọp rừng đã lánh xa, dân cư được chiêu mộ từ các nơi về có đến vài trăm hộ. Họ bắt đầu xây dựng xóm làng quy tụ thành từng vùng. Nhà nước còn giúp họ mua sắm nông cụ, trâu bò, khai khẩn đất hoang. Người già được nuôi nấng. Người ốm đau được cho thuốc chữa. Những nhà nghèo khổ được chẩn cấp. Bọn cường hào gian ác bị trừng trị. Bọn du thủ du thực được răn đe để trở về với nghề nông, lấy tang làm gốc”. Đọc những chính sách mà ông đã thực thi tại Diên Khánh cho thấy tinh thần “thực học, thực tài”, chuộng tính hiệu quả của người Quảng thông qua con người Đỗ Thúc Tịnh là rất rõ.

Với thái độ dấn thân, thanh liêm và tinh thần thương dân như con của Đỗ Thúc Tịnh, nhân dân trong phủ (Diên Khánh) rất biết ơn ông, nên khi triều đình điều chuyển ông đi hạt khác, họ nhiều lần xuống tỉnh đường xin giữ ông ở lại cho dân được nhờ. Các tỉnh thần đề đạt ý dâng lên, vua Tự Đức đã châu phê: “Người này ở chức, mà vẫn nghèo thanh bạch, không làm việc trái lương tâm, hết lòng lo việc dân. Mấy lần tỉnh thần đề đạt lên cũng đồng một lời giống nhau. Xét thấy người này thanh liêm, mẫn cán, thật là người tốt trong hàng phủ huyện, thì cũng phong cho Hàn lâm viện thị độc, nhưng ở lại lãnh tri phủ phủ đó (Diên Khánh) để làm lời khuyên cho những người ra làm việc dân!”. Phạm Phú Thứ - một người bạn, là đồng hương Quảng Nam, trong Giá viên toàn tập đã viết về ông: “Thúc Tịnh thi ân huệ ưu ái với nhân dân, thời đó nổi tiếng là bậc chăn dân tối ưu. Vua cất nhắc ông liên tiếp làm Án sát Khánh Hòa rồi lên Bố chính”.

Khi quân Pháp đánh chiếm Nam kỳ, vua Tự Đức ban chiếu kêu gọi sĩ phu, quan lại khắp nước hiến kế đánh giặc, Đỗ Thúc Tịnh đã nhiều lần tình nguyện xin vào Nam đánh Pháp song vua vẫn chưa ưng thuận. Ở đây, chúng ta nhận thấy tinh thần khảng khái, nghĩa khí cương cường, đúng chất sĩ phu đất Quảng qua hành động này của ông. Bởi, giữa bối cảnh lịch sử đương thời, chủ trương trong triều ngoài nội giằng xé nhau giữa “hòa” hay “chiến”, thì nổi lên hai nhân vật “quyết lòng đánh Tây”, “mộ dân phu đánh giặc” là Phạm Văn Nghị ở tỉnh Nam Định và Đỗ Thúc Tịnh ở tỉnh Quảng Nam. Phạm Văn Nghị mộ nghĩa dân kéo vào Trà Sơn (Đà Nẵng) đánh Pháp; Đỗ Thúc Tịnh xin vua cho mình trực tiếp vào Nam Kỳ, để mộ dân binh đánh giặc. Bối cảnh ông tình nguyện vào Nam Kỳ được cụ Phạm Phú Thứ nêu rõ: “Nhằm lúc thuyền Tây dương lấn lướt dữ ở Gia Định, đại đồn thất thủ, quân thứ rút lui giữ các tỉnh Biên Hòa, Vĩnh Long, (ông) nhiều lần dâng sớ xin cứu viện, nhưng đường sá bị ngăn trở. Vua muốn sai lĩnh mệnh đi trước, đến nơi làm việc phủ dụ an ủi tướng sĩ, tập hợp binh dân về quân thứ, gây thanh thế mưu tính thu phục lại (đất đai), nhưng không tìm ra được người làm việc đó. Đỗ cả quyết xin được cho đi. Vua cảm khái sai tiễn đưa, dặn riêng hãy bí mật đến Vĩnh Long rồi tùy cơ tính việc chiêu thảo”.

Về việc này, cuốn Hòa Vang huyện chí có một đoạn đáng chú ý: “Ông thẳng thắn dâng sớ xin tự thân tới biên thùy để vỗ an tướng sĩ, rao mời khắp binh dân, tính toán lấy lại mấy tỉnh đã mất. Nhà Vua khen ý ông hùng tráng, mời vào bên ngai, hỏi kế đánh giặc để lấy lại mấy tỉnh”. Vậy, Đỗ Thúc Tịnh đã tâu bày “thẳng thắn”, “ý ông hùng tráng” như thế nào để thuyết phục vua Tự Đức? Sử cũ không chép rõ, song qua ý tứ của các nhà chép sử lúc đó, ta thấy “Quảng Nam tính” hiển hiện trong lời tấu của Đỗ Thúc Tịnh và được vua Tự Đức chuẩn y: “Phàm mọi việc đều tùy tiện mà làm: Binh lương cho phép trù định lấy, viên biền cho phép cắt đặt lấy, lính dõng cho phép tổ chức huấn luyện lấy, tiền thóc cho phép quyên phát lấy, đến như tướng sĩ ai có công được khen thưởng, sợ hãi rút lui thì bị chém đầu đem rao để thị uy”. Việc vua Tự Đức kết luận, giao quyền cho Thúc Tịnh như vừa nêu, cho thấy ông chỉ xin vua “chủ trương”, “phương lược” để hành động, mọi việc còn lại ông tự xoay xở, gánh vác lấy. Nếu nhìn vào cách hành xử của Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Ông Ích Khiêm ta sẽ thấy sự tương đồng lý thú giữa họ: Xin vua cho cơ chế, còn mình tự tìm hướng đi! Sĩ phu xứ Quảng luôn là vậy!

Vừa đến Nam Kỳ, Đỗ Thúc Tịnh đã bắt tay vào việc chiêu mộ dân phu, kêu gọi phú hào đóng góp tiền của, cử quân lính thu thập tin tức của giặc… Việc làm của ông được Quốc sử quán triều Nguyễn lúc bấy giờ ghi rõ: “Sau khi viên ấy đến nhậm chức, nhiều lần tuân Dụ, khám xét tình hình, trù nghĩ phương lược, mọi khoản đều có thể khả quan”. Vua Tự Đức rất đẹp lòng và khen ông: “Cái lòng vì nước đuổi giặc, sẵn có mưu mô như thế chắc là đến chỗ hiểm cũng như đất bằng, có thể cổ vũ được sĩ khí mà giúp ích cho uy thế của Nhà nước vậy. Có tiết tháo trong khi gian nan, thương ngươi là kẻ hiền lao”. Ông còn bày ra nhiều phương lược để đánh Tây, nhiều tài liệu cho thấy Đỗ Thúc Tịnh đã chủ trương phối hợp hành động cùng Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương… lập nên chiến công lớn trong việc đột kích dùng hỏa công đốt cháy chiến thuyền “Hy vọng” (Espérance) và đánh đắm chiếc “Ma-Nha” trên sông Nhật Tảo của Pháp. Phạm Phú Thứ trong bài thơ tặng Đỗ Thúc Tịnh cũng đã viết:

“Ông biết vì nghĩa phẫn
Ông hiến một mưu sâu
Trên bộ phá lũy giặc
Dưới sông chặn đốt tàu
Thưởng công thơm chén rượu
Đất nước phục hồi mau”

Tiếc thay, ngày 25 tháng Giêng năm Nhâm Tuất, niên hiệu Tự Đức thứ 15, chẳng may ông bị chứng thổ tả và qua đời tại quân thứ. Được tin dữ, vua Tự Đức rất đỗi đau buồn và than rằng: “Người tôi trung và mẫn cán chẳng may bị đoản mệnh, chẳng biết sự cơ rồi sẽ như thế nào? Vả lại, khi con người mà bị mất cả “chân tay” (ý nhà vua muốn chỉ Đỗ Thúc Tịnh mất đi là mất một cánh tay đắc lực của mình - TG) thì đâu có khả năng làm được lớn!”. Sau khi ông mất đi, vua Tự Đức đã: “cấp một tấm gấm thêu, năm tấm lụa, mười tấm vải, tám chục (80) lạng bạc. Các quan tỉnh thần tỉnh Quảng Nam có nhiệm vụ đưa về tận nguyên quán. Khi linh cữu ông được đưa về đến nhà, các quan tỉnh phải chuẩn bị lễ phẩm, vâng mệnh ta xin gia đình tổ chức lễ tế để an ủi linh hồn ông và để giữ tròn hậu đạo quân thần. Sau khi mọi việc xong xuôi, các tỉnh thần phải xuất hai trăm (200) quan tiền để lo việc nuôi nấng con ông. Khi con ông đến tuổi trưởng thành bộ sẽ phúc tấu, để được lục dung!”. Thể theo mệnh vua, ba người con trai của ông đều được ân tứ: Người con trai trưởng là Hữu Điển được tập ấm ra làm quan đến chức Tri phủ. Người con trai thứ là Thúc Đảnh được ân thụ ấm sinh làm việc ở tỉnh. Người con trai út là Thúc Viên được bổ vào ngạch Thượng hạng ấm sinh tòng học Quốc Tử Giám.

Cuộc đời của Đỗ Thúc Tịnh quả là một tấm gương sáng về tinh thần công vụ, yêu dân như con, hết lòng vì đất nước, nhất là ông đã thể hiện trọn vẹn hình mẫu của một trí thức dấn thân đặc trưng của nhân sĩ xứ Quảng.

LƯU ANH RÔ

;
.
.
.
.
.
.