.
Pháp luật & Công dân

Một số vấn đề liên quan công tác thi đua, khen thưởng

Ngày 16-11-2013, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng (Luật số 39/2013/QH13) được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-6-2014 (sau đây gọi tắt là Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013).

Ngày 1-7-2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 65/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20-8-2014.

Tiếp đó, ngày 29-8-2014, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 07/2014/TT-BNV về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15-4-2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 27-4-2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15-4-2010 của Chính phủ; và Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 1-7-2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15-10-2014.

Như vậy, ngoài các văn bản nói trên, hiện nay, Luật Thi đua, Khen thưởng ngày 26-11-2003 (Luật số 15/2003/QH11), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng ngày 14-6-2005 (Luật số 47/2005/QH11) và các nghị định: Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, Nghị định số 39/2012/NĐ-CP vẫn còn hiệu lực thi hành.

Đặc biệt, Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013, Nghị định số 65/2014/NĐ-CP và Thông tư số 07/2014/TT-BNV có sự điều chỉnh, thay đổi nhiều nội dung liên quan đến đối tượng, hình thức, tiêu chuẩn, thẩm quyền và trình tự, thủ tục thi đua, khen thưởng.

Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là cấp tỉnh) và cấp cơ sở, liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng, xin giới thiệu một số điểm cần lưu ý trong quá trình triển khai:

Mở rộng đối tượng khen thưởng, chú trọng nguyên tắc bình đẳng giới

Điểm đáng lưu ý là Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã mở rộng đối tượng khen thưởng và chú trọng nguyên tắc bình đẳng giới.

Theo đó, đã bổ sung các quy định xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng cụ thể cho đối tượng là công nhân, nông dân, người lao động; bổ sung đối tượng là các gia đình được tặng thưởng bằng khen, giấy khen; mở rộng đối tượng được tặng Huy chương là công chức, viên chức làm việc trong lực lượng vũ trang (trước đây quy định xét tặng cho sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng); mở rộng đối tượng được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang đối với những người làm việc ở vùng biển, đảo, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn;

Huy chương Hữu nghị để tặng cho người nước ngoài có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam (trước đây quy định người nước ngoài phải có thời gian làm việc tại Việt Nam); bổ sung quy định cụ thể khi xét khen thưởng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị (phải căn cứ vào thành tích của tập thể do cá nhân đó lãnh đạo).

Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giới trong thi đua, khen thưởng, với quy định đối với nữ là cán bộ lãnh đạo, quản lý, thời gian giữ chức vụ để xét khen thưởng có quá trình cống hiến được giảm 3 năm so với quy định chung. Đối với khen thưởng thành tích thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội, khi có nhiều cá nhân, tập thể cùng đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì lựa chọn cá nhân nữ và tập thể có tỷ lệ nữ từ 70% trở lên để xét khen thưởng.

(Còn nữa)

TRẦN DANH NAM

Ban Thi đua - Khen thưởng thành phố Đà Nẵng

;
.
.
.
.
.