Tạo dựng đô thị giàu bản sắc

.

Mặc dù tiêu chí cụ thể để khẳng định như thế nào là một thành phố giàu bản sắc vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản, một thành phố bản sắc đồng nhĩa với việc thành phố đó còn lưu lại trong ký ức mỗi người những hình ảnh rất đặc trưng để có thể kể lại, hay nhắc đến, hay níu kéo để quay về. Cái lưu lại ấy càng rõ nét, càng không lẫn vào đâu, càng bền chặt qua thời gian thì thành phố đó càng đậm đà về bản sắc là điều tất yếu.

Một góc đô thị Đà Nẵng.  Ảnh: NGUYỄN TRUNG THU
Một góc đô thị Đà Nẵng. Ảnh: NGUYỄN TRUNG THU

Nhìn lại thực tiễn đô thị Đà Nẵng

Chúng ta luôn tự hào về những gì đã đạt được và vững tin cho một tương lai tươi sáng sau chặng đường 20 năm xây dựng và phát triển. Tên gọi “Thành phố đáng sống” mà bè bạn yêu mến dành tặng cho Đà Nẵng ghi nhận cho những nỗ lực của người dân thành phố trong quãng thời gian đã qua. Tuy nhiên, khi tĩnh tâm “nhìn lại”, không ít người trong chúng ta sẽ không khỏi băn khoăn tự hỏi: bản sắc kiến trúc đô thị Đà Nẵng là gì?

Có thể nói, Đà Nẵng thực sự là nơi được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho một khối tài sản vô giá. Quả thật hiếm có nơi nào trên dải đất nước hình chữ S này được sở hữu một hệ thống sinh thái cảnh quan tự nhiên đa dạng đến như vậy, hội tụ sinh thái sông, sinh thái biển, sinh thái rừng, sinh thái đảo, sinh thái đồng bằng… tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một cấu trúc “Núi - Sông - Biển” rất bền chặt.

Bên cạnh đó, cũng phải kể đến hệ sinh thái nhân văn phong phú với sự giao thoa của nhiều nền văn hóa: văn hóa Đông - Tây, văn hóa Việt - Chăm, văn hóa dân gian - hiện đại, văn hóa làng xã - thành thị, văn hóa vật thể - phi vật thể… Tất cả tạo nên một bức tranh muôn màu, cộng sinh để tồn tại, cộng hưởng để phát huy.

Ngoài ra, không thể không nhắc đến vốn di sản kiến trúc được tích lũy qua những bước thăng trầm của lịch sử. Tuy không quá đồ sộ so với những thành phố hàng ngàn năm tuổi, nhưng Đà Nẵng cũng tự hào khi nhắc đến các đình làng như Hải Châu, Bồ Bản…; sở hữu công trình độc nhất vô nhị Bảo tàng Điêu khắc Chăm lưu giữ những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc của nền văn hóa Chămpa một thời vang bóng; ngôi trường được mang tên École Franco-Annamite de Tourane sau này đổi thành Trường Phù Đổng hay Tòa Thị chính tọa lạc ngay bên bờ sông Hàn thơ mộng nay là trụ sở Hội đồng Nhân dân thành phố…

Theo thời gian, những công trình đó vẫn luôn khẳng định là những chuẩn mực trong sáng tạo nghệ thuật kiến trúc, đậm chất thẩm mỹ và giàu tính nhân văn.

Từ sau mốc son được công nhận là đô thị loại 1 cấp quốc gia vào năm 2003 đến nay, thành phố chứng kiến sự đổi thay đáng thán phục, sự thay da đổi thịt đang diễn ra hằng ngày. Nếu như trước đây Đà Nẵng chỉ là đô thị cấp tỉnh với những công trình thấp tầng len lỏi ven sông thì nay đã mang hình hài của một đô thị hiện đại vươn mình ôm trọn một dải bờ Biển Đông.

Đời sống người dân nhờ vậy cũng khởi sắc hơn, văn minh đô thị tiệm cận đến chuẩn mực của những thành phố lớn trong khu vực.

Nhưng có lẽ, chúng ta cũng dễ nhận ra một thực tế rằng, Đà Nẵng đang phải đối mặt với sự mất cân bằng cần thiết cho việc phát triển bền vững. Đó là sự cân bằng giữa quá khứ và hiện tại, giữa yếu tố nhân tạo và tự nhiên, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo tồn văn hóa, giữa những con đường to rộng và sự chống chếnh của kiến trúc đô thị, giữa khát vọng vươn tới tương lai và sự nhìn lại quá khứ…

Quá trình tái thiết đô thị đã đánh mất quá nhiều thứ để nhớ và lưu vào ký ức, để khi ngoái nhìn lại chúng ta thấy hối tiếc. Là sự hối tiếc khi đánh mất đi các công trình kiến trúc được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Là sự tiếc nuối khi nhiều công trình với phong cách kiến trúc độc đáo trên phố Bạch Đằng, Trần Phú, Lê Lợi… bị phá bỏ hoặc thay đổi công năng, mà một khi đã thay đổi công năng thì chạm đến lỗi lớn và không có cơ hội để khắc phục.

Là sự xót xa khi những vùng quê trù phú đã phải nhường chỗ cho các khu công nghiệp và các khu tái dịnh cư; những làng nghề truyền thống cùng với những lễ hội đặc trưng nhường chỗ cho những khu du lịch sang trọng…

Những cảm giác đó sẽ ào ạt đến cùng một lúc, khi chúng ta nhận ra rằng tất cả những sắc màu riêng của Đà Nẵng đang phai dần đi bởi quá trình đô thị hóa quá nhanh và đang dần có nguy cơ mất kiểm soát.

Và hơn cả, là sự hối tiếc dai dẳng khi nhìn đến hệ sinh thái tự nhiên vốn dĩ là một cấu trúc hoàn chỉnh đang dần bị chia cắt, biến dạng và nguy cơ suy thoái môi trường ngày càng hiện hữu bởi cuộc chạy đua của thị trường, của những khát vọng chinh phục, nếu không thận trọng thì sẽ trở thành lối ứng xử thiếu văn minh khi khai thác thiên nhiên một cách thái quá.

Để suy ngẫm thêm về những giải pháp

Bản thân người viết là kiến trúc sư nghiên cứu trong lĩnh vực cảnh quan đô thị với nhiều tâm tư, mong muốn góp phần gìn giữ và tạo dựng một hình hài đô thị Đà Nẵng đậm bản sắc, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cụ thể để chúng ta cùng suy ngẫm.

Trước hết, phát huy giá trị các di sản kiến trúc là nhiệm vụ quan trọng cùng với những giải pháp bảo tồn, phục hồi cần sớm được triển khai. Chúng ta hãy làm điều đó với một tinh thần cầu thị, thông qua những nghiên cứu mang tính tổng thể và thật sự khoa học.

Cần sớm ban hành bộ quy chế ứng xử, quản lý đối với các di sản kiến trúc một cách cụ thể để tránh mắc phải những sai lầm đã xảy ra. Kế đến là sự bắt tay vào cuộc của các nhà quản lý quy hoạch, cải tạo chỉnh trang các công trình có giá trị văn hóa, tâm linh truyền thống của người dân Đà Nẵng.

Các đền thờ, miếu mạo, không gian lễ hội phải được ứng xử với một thái độ trân trọng, tương lai sẽ nhìn nhận và đánh giá chúng ta không chỉ là những gì chúng ta đã tạo dựng hôm nay mà hơn cả là những gì chúng ta gìn giữ được từ thế hệ cha ông, truyền lại cho thế hệ mai sau, đó là lương tâm và trọng trách của mỗi người.

Hai là, thành phố còn thiếu những điểm nhấn đô thị, thiếu những công trình mang tính biểu trưng để nhìn vào nhận ra ngay. Các kiến trúc sư không chỉ có trách nhiệm tạo ra những vật thể có công năng, hình thức thẩm mỹ vừa mắt mà cần hơn là sự sáng tạo nghệ thuật, khi ngắm nhìn và bước vào bên trong sẽ có những rung cảm, công chúng sẽ ghi nhận không chỉ là tài năng mà cả cái tâm trong từng nét vẽ.

Đối với các nhà quy hoạch, quản lý đô thị, việc tạo ra nhiều địa điểm, nhiều không gian cho cộng đồng là cần thiết, nhưng cần hơn nữa chính là các không gian kiến trúc kia thực sự trở thành những “nơi chốn”, nơi mà mọi người đến không chỉ muốn được đáp ứng về nhu cầu mà quan trọng hơn “nơi chốn” ấy sẽ lưu lại những kỷ niệm đáng nhớ, sẽ là nơi tìm đến, nơi luôn nghĩ về. Tất cả điều đó đòi hỏi một sự vào cuộc làm việc nghiêm túc, luôn hiện diện song hành cái tâm với nghề, cái tầm để hoạch định và kiến tạo.

Ba là, cần nhìn lại để đánh giá một cách khách quan - khách quan ngay cả trong việc đặt câu hỏi, liệu rằng chúng ta đã sử dụng đất đai một cách có hiệu quả chưa khi mở rộng thành phố theo tiến trình của một đô thị xứng tầm khu vực?

Chúng ta đang xây dựng đô thị theo mô hình gì? Hình hài đô thị trong tương lai sẽ như thế nào khi vẫn mải mê say sưa với những ngôi nhà thấp tầng, những ngã ba ngã tư giao thông dày đặc?. Chúng ta tạo ra thật nhiều quỹ đất ở để đón đầu cho một thành phố với quy mô hơn 2 triệu dân đã thật sự hợp lý chưa, trong khi tương lai người thành thị cần hơn những khoảng xanh, hạ tầng xã hội và những tiện ích đô thị?.

Chúng ta đã nghĩ đến và sẽ làm gì với những mô hình “đô thị nén”, “thành phố vườn”…?. Những câu hỏi đó cũng chính là những tự vấn, suy ngẫm, trăn trở trong mỗi chúng ta. Cho nên, cần thiết phải có một giải pháp lâu dài, vừa đảm bảo tính hiệu quả trong khai thác tài nguyên đất đai, vừa bảo đảm điều kiện hiện thực hóa mục tiêu trở thành thành phố nhân văn, thành phố đáng sống. Việc gìn giữ một vành đai xanh cho thành phố, mảng vườn xanh cho khu dân cư, hành lang xanh cho các loài di chuyển và giao thông xanh để bảo vệ môi trường là chiến lược mang tính thời đại.

Hình ảnh một thành phố hiện đại, văn minh với những công trình xây dựng hiện đại song hành với những xóm làng truyền thống, bản làng dân tộc cùng hòa quyện trong màu xanh của nước, của trời và của cây cỏ cũng chính là một đặc trưng khó tìm thấy ở các đô thị khác hiện nay.

Điều cuối cùng, và cũng là điều mà người viết mong đợi nhất, đó chính là quá trình xây dựng, chỉnh trang đô thị cần tuân thủ nguyên tắc: hình thái không gian đô thị Đà Nẵng không thể thiếu bóng dáng của núi cao, đồi thấp, của sông dài và bãi cát trắng.

Cơ cấu sử dụng đất đai trong quy hoạch không thể thiếu những mảng xanh tự nhiên, không gian dành cho cộng đồng không thể thiếu những bãi tắm biển. Thế hệ cha ông ta đã tạo dựng đô thị Đà Nẵng trên nguyên tắc kiểm soát không gian luôn trong một trạng thái cân bằng, hài hòa giữa các yếu tố: cảnh quan tự nhiên và cảnh quan đô thị, giá trị tinh thần và nơi chốn, phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa…

Ngày hôm nay, đón nhận vận hội mới, thành phố tiếp tục hội nhập sâu, chúng ta không thể chối từ những trào lưu kiến trúc đương đại, càng không thể đi ngược với những tiến bộ của công nghệ thời đại 4.0, thành phố sẽ thông minh hơn, đô thị tiện ích hơn, nhưng nguyên tắc cơ bản trên vẫn phải được tôn trọng, gìn giữ và phát huy, bởi đó là bản sắc, và đã là bản sắc thì chắc chắn sẽ không thể mờ nhạt dù trong thời đại nào. Và chắc chắn hơn hết, một khi có bản sắc riêng, theo thời gian, Đà Nẵng sẽ luôn mang hình hài nên thơ của một thành phố bên núi, bên sông hài hòa và sâu lắng.

 KTS. TÔ HÙNG

;
.
.
.
.
.