.

Danh thần Võ Đăng Xuân

.

Võ Đăng Xuân còn có tên là Tiến Thượng, Tiến Thảng, Tiến Tiếu, tự là Thành Chi, (chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Phô Thị, tổng An Thái Trung, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình; nay là làng Phô Thị, xã Bình Tú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Mộ danh thần Võ Đăng Xuân. Ảnh: V.V.H
Mộ danh thần Võ Đăng Xuân. Ảnh: V.V.H

Cha ông là Võ Đăng Nghị, được vua Tự Đức cho là “người biết cách dạy con, đem thân vì nước” và truy tặng là Phụng Nghị đại phu Hàn lâm viện Thị độc. Mẹ ông, bà Hồ Thị Liên được vua Tự Đức cho là “người dùng đức hạnh dạy con, học hành đỗ đạt” và truy tặng là Ngũ phẩm Nghi nhân.

Thuở nhỏ ông học ở trường phủ Thăng Bình, sau đó vào trường Đốc Quảng Nam. Năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), ông thi Hương đỗ Cử nhân tại trường thi Thừa Thiên. Ba năm sau, trong khoa thi năm Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ hai (1849) ông thi đỗ Phó bảng, được bổ Hàn lâm viện kiểm thảo rồi bổ Đồng tri lĩnh huyện Tuy An. Ông làm việc hết sức thanh liêm, công bằng nên được nhân dân tin phục. Nhưng sau vì chậm trễ trong việc kết án các vụ cướp, ông bị giáng bổ xuống hàm chánh bát phẩm lĩnh kiểm thảo sung Nội các hành tẩu.

Tự Đức năm thứ mười chín (1866), theo xem xét và đề nghị của Bộ Lại, ông làm việc tại Hàn lâm viện với nhiệm vụ trông coi sổ sách của hai bộ Lễ và Binh.

Hai năm sau, bọn phỉ người Thanh ở Trung Quốc thường tràn sang cướp phá các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn - những tỉnh nằm gần biên giới nước ta, rất xa kinh đô, quân lương không đủ. Quân triều đình đã đánh nhiều trận, có thắng có thua vẫn không dẹp hết chúng được. Vua Tự Đức cho rằng, nếu không dẹp yên bọn thổ phỉ này thì biên giới ta khó giữ. Vua bèn xem sổ quan ban võ thấy nhiều người bị đình trệ, bèn sai quan Bộ Binh tra rõ các viên quản các vệ ở trong kinh và các tỉnh ngoài tại chức đã được ba năm trở lên, có công trạng bắt giặc hoặc am hiểu võ nghệ, trận pháp, xạ pháp thì làm danh sách kê khai để vua phái đi. Lúc này Võ Đăng Xuân đang làm ở Hàn lâm viện, nhưng cũng được phái đi theo quân thứ của Lạng Sơn - Cao Bằng. Sau đó, ông bị bệnh và về quê nghỉ dưỡng chờ hậu bổ.

Tự Đức năm thứ hai mươi lăm (1872), khi đương kim Án sát Hà Nội, ông được cử làm Tán tương Quân thứ Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang) đánh dẹp phỉ Trung Quốc, cùng lái buôn người Pháp là Garnier đang hoành hành vùng thượng lưu sông Hồng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Đồng Đăng, Kỳ Lừa... Trong lúc đánh nhau với phỉ Trung Quốc, ông để đồn Đông Lý thất thủ nên bị giáng ba cấp lưu dụng.

Sau đó, ông lại tham gia trong đạo quân của Tham tán Ông Ích Khiêm tiếp tục đánh dẹp phỉ Trung Quốc. Sách Đại Nam thực lục chép: “Tán tương quân thứ ở Sơn - Hưng - Tuyên là Vũ Tiến Thảng (tức Võ Đăng Xuân - NV) đi đánh giặc ở hai đồn Đan Hà và Đồng Lũng, vì coi thường tiến đánh, bị chết trận. Việc ấy tâu lên. Vua bảo Bộ Binh rằng: Tiến Thảng lầm lỗi vì táo bạo hăng hái quá, không những hại đến bản thân, cũng hại cả việc nước, nhưng quan văn mà như thế, rất có nghĩa khí, đáng khen, chuẩn cho truy tặng hàm Hàn lâm viện thị độc, chiểu theo hàm được tăng mà cấp tiền tuất và cho con được tập ấm”.

Theo lời kể của các ông Võ Tấn Cẩm (sinh năm 1931), Võ Tấn Tâm (sinh năm 1941) là hậu duệ đời thứ 13 của dòng họ Võ làng Phô Thị (ông Võ Đăng Xuân đời thứ 8) thì tương truyền khi ông hy sinh, kẻ thù đã chặt lấy đầu ông, các tướng sĩ phải khiêng quan tài của ông đi bộ suốt ba tháng trời mới về đến quê nhà và chôn ở xứ Đàng Trạm, làng Phô Thị. Nơi đây, dân làng vẫn gọi mộ ông là mộ Quan Án.

Tin ông hy sinh được tâu lên vua Tự Đức. Vua cho rằng, suốt những năm tháng kể từ khi thi cử đỗ đạt rồi ra làm quan, lúc nào ông cũng tỏ ra là người “tang hồ tráng chí, khoa bảng danh lưu”, nhiều lần “quên thân vì nước chẳng chút từ nan” nên truy tặng cho ông là Trung Thuận đại phu Hàn lâm viện Thị độc học sĩ. Tự Đức năm thứ 33 (1880), ông được liệt vào thờ ở Trung nghĩa từ. Con của ông là Võ Tiến Gián được ấm thụ Chánh cửu phẩm sung việc từ trác nha Sơn phòng Nghĩa Định (Quảng Ngãi - Bình Định).

Hà Đình Nguyễn Thuật (1842 - 1911) bấy giờ là Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn và cũng là đồng hương huyện Lễ Dương với ông, khi hay tin ông hy sinh đã viết bài văn truy niệm, trong đó có câu:

“Chí ông ai nấy đều biết, ai nấy đều nói là phải, là người huyện tôi nổi danh, ai nấy lấy làm vinh hạnh về ông! Nay ông đã ngưng nghỉ, chí ông không mất nhưng huyện tôi mất một người.

Ô hô! Ôi là thương tiếc, thế là công bố khí khái của ông là văn, xin mời ông, về dự hội cờ Triệu đầy tiếng thổn thức này”.

Làng Phô Thị hiện vẫn còn nhiều dấu tích về ông. Một gò đất nhìn ra cánh đồng thuộc xứ Đàng Trạm là nơi an nghỉ cuối cùng của ông. Mộ xây bằng vôi và gạch theo phong cách triều Nguyễn. Trước mộ có bức bình phong, mặt trước không rõ mô-tip trang trí, mặt sau còn sót lại những dòng chữ Hán mờ nhạt do trải qua thời gian, mưa gió bào mòn. Hai bên cũng có hai bức bình phong được xây bằng gạch. Đây là một trong những ngôi mộ cổ còn khá nguyên vẹn trên đất Quảng Nam.

Tại căn nhà thờ ông ở làng Phô Thị do ông Võ Tấn Cẩm hương khói, thờ tự vẫn còn lưu giữ 7 sắc phong. Đây là những văn bản vô cùng quý giá, là nguồn sử liệu hết sức quan trọng minh chứng cho hành trạng một danh nhân của Thăng Bình đã có nhiều đóng góp cho đất nước, dân tộc dưới thời Nguyễn. Tuy nhiên, tất cả vẫn chưa được nghiên cứu, tìm hiểu đến nơi đến chốn và đánh giá đúng tầm để bảo tồn di sản vô cùng quý giá của tiền nhân.

VÕ VĂN HOÀNG

;
.
.
.
.
.