Xe buýt Đà Nẵng: Bao giờ thu hút khách?

.

Đến năm 2020, Đà Nẵng có 20 tuyến xe buýt vận hành, đến năm 2025 là 26 tuyến. Từ 40%-70% người dân khu vực trung tâm thành phố chỉ cần bước không quá 500m là có thể bắt xe buýt. Đó là những nội dung cụ thể được HĐND thành phố thông qua trong Nghị quyết 102/2017/NQ-HĐND đề án Tăng cường vận tải công cộng kết hợp kiểm soát sử dụng phương tiện cơ giới cá nhân tham gia giao thông, kiểm soát và điều tiết hợp lý các phương tiện vận tải vào trung tâm thành phố.

Được đầu tư bài bản với kỳ vọng lớn nhưng 6 năm qua xe buýt ở Đà Nẵng vẫn lèo tèo khách đi. Ảnh: Trường Trung
Được đầu tư bài bản với kỳ vọng lớn nhưng 6 năm qua xe buýt ở Đà Nẵng vẫn lèo tèo khách đi. Ảnh: TRƯỜNG TRUNG

Đến nay, đã 6 năm từ ngày nghị quyết ra đời, chỉ cần nhìn vào tiêu chí số tuyến xe có thể thấy những kỳ vọng ban đầu vẫn chưa thể trở thành hiện thực. Tính luôn cả tuyến xe buýt liên tỉnh và TMF, Đà Nẵng mới có 7 tuyến buýt, trong đó có 5 tuyến buýt trợ giá gồm tuyến R4A (cảng sông Hàn - Hòa Tiến), tuyến R15 (Bến xe Trung tâm - Thọ Quang), tuyến R6A (Bến xe Trung tâm - Khu du lịch Non Nước), tuyến R16 (Kim Liên - Đại học Việt-Hàn), tuyến R17A (cảng sông Hàn - huyện Hòa Vang). Đó chỉ mới là những tiêu chí “cứng”. Nếu nhìn vào thực trạng hiện nay sẽ thấy những tuyến xe buýt trên dù được hỗ trợ với giá rất rẻ nhưng vẫn ít khách. Thậm chí là tình trạng nhiều tuyến phải “chạy gió” ngoài giờ cao điểm.

Là đô thị trẻ, có lợi thế đi sau nên Đà Nẵng học được rất nhiều điều từ đô thị lớn ở 2 đầu đất nước để giải quyết bài toán ùn ứ, kẹt xe. Trong đó việc hoàn thiện và mở rộng mạng lưới vận tải hành khách công cộng được xem là mấu chốt để giảm phương tiện cá nhân. Xe buýt không chỉ là giải pháp để kéo chậm nguy cơ kẹt xe mà nhìn xa hơn thì đây là bài toán giảm tải cho hạ tầng, môi trường. Ở góc nhìn khác đây còn là bài toán tiết kiệm xã hội, an sinh đối với nhiều người dân.

Thời điểm Nghị quyết ra đời, thành phố đã dành sự đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, xe cộ, bến bãi. Những chuyến xe buýt mới toanh, mát lạnh, hành khách được xem tivi, lộ trình thông báo tự động. Xe sạch sẽ, thái độ phục vụ của nhân viên cũng tạo được thiện cảm trên những nẻo hành trình nên từng có lúc số tuyến buýt trợ giá lên đến 14.

Đã có lúc, những tuyến buýt mới mở tăng trưởng hành khách ở mức 2 con số. Thậm chí vào giai đoạn đầu, chỉ riêng 5 tuyến buýt trợ giá đã phục vụ tới 1,7 triệu lượt khách vượt kỳ vọng của ngành vận tải. Văn hóa đi xe buýt dù khá mới nhưng đã được người dân Đà Nẵng chấp nhận.

Bất chợt Covid-19 ập tới làm đảo lộn mọi thứ. Sau gian dài phải "đắp mền" vì dịch, hệ thống vận tải hành khách công cộng của Đà Nẵng lại trở về nơi... bắt đầu.

Công bằng mà nói việc đang ngon trớn thì mất đà của xe buýt Đà Nẵng có nguyên nhân rất lớn đến từ ảnh hưởng của dịch bệnh. Covid-19 tác động đến thói quen sử dụng phương tiện công cộng mới chớm nở đã vội tàn. Đó là chưa kể lượng du khách thập phương đến với thành phố cũng chưa thể phục hồi như thời “ngựa xe như nước áo quần như nêm” trước đây.

Nhưng cũng không thể đổ lỗi hết do dịch khi những câu chuyện “lình xình” liên quan đến chuyện chi trả tiền lương, nợ bảo hiểm y tế giữa đơn vị vận hành xe buýt với lái xe, phụ xe vẫn xảy ra thường xuyên dẫn đến tình trạng lái xe, phụ xe đình công. Thử hỏi cứ dăm ba bữa xe buýt lại “đứng bánh” vài ngày thì khách nào còn kiên nhẫn đợi chờ? Đời sống lái xe, nhân viên chưa bảo đảm khiến chất lượng phục vụ đi xuống thấy rõ trên những chuyến xe.

Đó là chưa nói đến việc mạng lưới xe buýt đã hiện ra những bất cập như: lộ trình chưa hợp lý dẫn đến kẹt xe, kéo dài thời gian di chuyển, thiếu điểm đón đỗ chờ xe, việc quảng bá xây dựng thói quen cho nhân dân còn hạn chế… Xe buýt từ nhanh thành chậm khi hiện nay một số tuyến đã nới thời gian từ 15-12 phút lên 30-45 phút mỗi lượt.

Thành phố tiếp tục cụ thể hóa những nội dung trong đề án của Nghị quyết 102/2017/NQ-HĐND giai đoạn 2021-2025. Đã có một số nhiệm vụ trong số 41 nhiệm vụ thuộc 7 nhóm giải pháp cơ bản được thực hiện như việc lập quy hoạch hợp phần giao thông vận tải để tích hợp vận tải công cộng, tính toán mật độ mạng lưới, lộ trình tuyến, điểm dừng - đỗ. Hay gần đây nhiều tiện ích mới đã và sắp được giới thiệu đến hành khách như việc bán vé điện tử QRcode, cho thuê xe đạp điện để “bổ khuyết” cho một số trạm xe buýt xa nhà dân… nhưng từng đó vẫn chưa đủ để người dân đến trạm chờ.

Vẫn biết rằng việc phát triển mạng lưới xe buýt rộng khắp là mục tiêu rất khó. Phải kiên trì thực hiện nhất là trong bối cảnh lượng ô-tô cá nhân tăng nhanh do thu nhập bình quân đầu người chạm ngưỡng 4.000 USD/năm. Để đạt được mục tiêu nâng số chuyến đi bằng xe buýt đạt 1,5% nhu cầu đi lại trong đô thị vào năm 2025 là một thử thách lớn…

KHÔI TRIẾT

;
;
.
.
.
.
.