Tấm bia đặc biệt và vị Đốc học họ Trương

.

Trong số 17 vị Đốc học của Quảng Nam, Trương Công Thúy (Trương Công Diêu) là người đầu tiên và cũng là vị đốc học không xuất thân từ hàng ngũ “đại khoa”. Trước đây ông được vinh danh trên bia đá tại Văn thánh huyện Lễ Dương (Thăng Bình).

Lễ Dương huyện nhân vật bi chí. Ảnh: L.T
Lễ Dương huyện nhân vật bi chí. Ảnh: L.T

Tấm bia đặc biệt ở Văn thánh huyện Lễ Dương

Tại nhà thờ tiền hiền làng Hà Lam (nay thuộc thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình), có 9 tấm bia đá cổ, vốn có nguồn gốc từ Văn thánh huyện Lễ Dương trước đây. Năm 1985, Văn thánh bị phá để xây dựng trường học, các cụ trong Hội đồng chư tộc Tiền hiền làng Hà Lam bèn đưa các tấm bia này về gửi tại đây. Trong số 9 tấm bia có một tấm đặc biệt, được đánh dấu là bia số 1 và có tên là Lễ Dương huyện nhân vật bi chí (Bia nhân vật huyện Lễ Dương), khác với 8 tấm khác có tên là Lễ Dương huyện khoa hoạn bi chí (Bia các nhân vật đỗ đạt làm quan của huyện Lễ Dương).

Lễ Dương huyện nhân vật bi chí ghi chép khá đầy đủ về quê quán, thân thế, công lao, sự nghiệp của hai nhân vật, một võ tướng và một văn thần đầu triều Nguyễn, đó là Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương và  Hoằng tín Đại phu Trương Công Diêu. Đây là hai nhân vật hàng đầu của huyện Lễ Dương thời đó được vinh danh trong các sách của Quốc sử quán triều Nguyễn, đó là Đại Nam nhất thống chí và Đại Nam liệt truyện.

Nội dung trên văn bia: “Người khởi xướng và duyệt nội dung là Phó bảng Nguyễn Thuật, người khởi thảo nội dung là Cử nhân Nguyễn Hữu Quang, sau đó có sự giúp sức khảo cứu của Tả trực đạo Ngự sử Lê Bá Hoan và Đốc học Nguyễn Trạc… người viết chữ vào bia là Tú tài Võ Vỹ” (Nguyễn Bằng, Nguyễn Văn Hà - Bia Văn thánh & một số văn bia Hán Nôm tại huyện Thăng Bình, UBND huyện Thăng Bình, năm 2015, trang 20)

Văn bia có kích thước khá lớn, rộng 0,75 mét, cao 1,1 mét, dày 0,15 mét, gồm 1.129 chữ, trong đó phần dành cho Nguyễn Văn Trương là 893 chữ, phần dành cho Trương Công Diêu chỉ có 236 chữ. Lẽ nào ngày đó “võ tướng” vẫn còn được coi trọng hơn “văn thần”  như thời đầu triều Nguyễn (!) vì bia được khắc dựng vào năm 1896 dưới triều Thành Thái.

Lễ Dương huyện nhân vật bi chí qua bao “dâu biển” đã bị bể làm 3 mảnh. Rất may vào năm 1993, các cụ trong Hội đồng chư tộc Tiền hiền làng Hà Lam đã dịch rồi in lại và vào năm 2015 hai tác giả Nguyễn Bằng và Nguyễn Văn Hà đã thực hiện việc chế bản chữ Hán nội dung văn bia, chụp hình, phiên âm và dịch ra quốc ngữ tấm bia này cùng 12 tấm khác và in thành sách (đã dẫn ở trên). Dấu xưa vì thế đã được giữ lại.

Vị đốc học đầu tiên

Tại trường Đốc Quảng Nam dưới thời Nhà Nguyễn có tất cả 17 vị đốc giáo (hiệu trưởng), cũng là vị quan lo việc giáo dục ở một tỉnh, đó chính là quan Đốc học. Trong số 17 vị chia ra Quảng Nam 8, Nghệ An 5, Thanh Hóa 1, Hà Tĩnh 1, Bắc Ninh 1 và Thái Bình 1. Nhiều vị rất nổi tiếng, sau này trở thành Tế tửu Quốc tử giám (Hiệu trưởng trường Đại học Quốc gia duy nhất cả nước đặt tại kinh đô) như Nguyễn Dục, Nguyễn Đình Tựu, Trần Đình Phong. Vị Đốc học đầu tiên là Trương Văn Thúy (Trương Công Diêu) người Quảng Nam và vị đốc học cuối cùng là Đinh Văn Chấp người Nghệ An.

Trương Công Thúy (Bia ở Văn thánh huyện Lễ Dương lại ghi là Trương Công Diêu), không rõ năm sinh, năm mất. Ông người làng Hưng Thạnh Tây, tổng Hưng Thạnh Hạ, huyện Lễ Dương (nay là thôn Hưng Mỹ, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam). Là người có văn tài uyên bác, từng làm quan ở Hàn lâm viện (văn phòng nhà chúa) dưới thời Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1776).

Khi bị quân Trịnh và quân Tây Sơn tấn công hai đầu, Duệ Tông bỏ Phú Xuân rồi Quảng Nam chạy vào Gia Định, Trương Công Thúy theo tả quân Nguyễn Cửu Dật phò nhà chúa. Đến Quy Nhơn gặp gió lớn tàu bị lật, Nguyễn Cửu Dật chết, ông thoát được vào bờ ẩn náu. Sau đó trở lại quê nhà tìm cách vào Gia Định nhưng bất thành. Khi nhà Tây Sơn hưng khởi có mời ông ra tham chính nhưng ông từ chối. Để tránh sự dòm ngó của nhà Tây Sơn ông giả làm người nát rượu, suốt ngày say sưa. Quan quân nhà Tây Sơn tưởng thật gọi ông là gã “Túy cuồng”. Nhờ thế ông được yên thân.

Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), ông được vời về kinh tham gia soạn điển lệ và dự lễ tế Nam Giao. Sau đó ông được bổ Đốc học dinh Quảng Nam. Học trò ông nhiều người thành đạt. “Ông là người có khí tiết, văn chương học vấn sâu rộng, trong triều ngoài nội thảy đều trọng vọng” (Lời khắc trên bia Văn thánh huyện Lễ Dương).

Sau khi chết ông được truy phong thụy hiệu là Khiêm Thận, tước Gia Hoằng Tín đại phu.

Con trai ông là Trương Công Phát được bổ giữ chức Tri huyện Du Xuyên (Thanh Hóa), một thời gian xin cáo quan về phụng dưỡng cha già. Cháu ông là Trương Công Đạo đỗ Cử nhân (Cống sinh) dưới triều Minh Mạng, từng giữ chức Tri phủ Hoằng Trị (Bến Tre), lập được nhiều công trạng, nhất là trong việc thu phục các dân tộc thiểu số.

Sau này hậu duệ của ông có Trương Bá Huy, đỗ tú tài năm 1906, không chịu tiếp tục khoa cử mà tham gia phong trào Duy tân (1904 - 1908) ở địa phương, là người lãnh đạo cuộc biểu tình kháng thuế ở Hà Lam (Thăng Bình) năm 1908, bị bắt đày Côn Đảo cùng một lượt với Huỳnh Thúc Kháng. Sau khi được trả tự do (năm 1914) lại tham gia cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân năm 1916, bị bắt đày Lao Bảo và hy sinh tại đây.

LÊ THÍ
 

;
;
.
.
.
.
.