Đà Nẵng cuối tuần

Trầm tích lịch sử Cu Đê

09:27, 17/02/2019 (GMT+7)

Cu Đê là một trong hai hệ sông chính của thành phố Đà Nẵng. Dọc theo dòng sông hiền hòa này có thể bắt gặp hàng chục di tích ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.

Một đoạn sông Cu Đê. Ảnh: L.T
Một đoạn sông Cu Đê. Ảnh: L.T

Sông Cu Đê

Sông Cu Đê còn có tên là sông Trường Định, là con sông nhỏ nằm ở vùng Tây Bắc Đà Nẵng. Gọi là sông Cu Đê vì phần hạ lưu sông chảy qua làng Cu Đê.

Sông được hợp thành bởi hai dòng sông Bắc và sông Nam đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn. Sông Bắc xuất phát trên dãy Bạch Mã thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế; sông Nam xuất phát từ vùng núi của huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Hai sông Bắc và Nam giao nhau tại thôn Tà Lang, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang ở vị trí cầu Sập (nay là cầu Tà Lang – Giàn Bí). Từ Tà Lang, sông chảy 38km theo hướng tây-đông rõ rệt qua các xã Hòa Bắc, Hòa Liên (huyện Hòa Vang), phường Hòa Hiệp Bắc (quận Liên Chiểu) và đổ ra vịnh Đà Nẵng ở cửa biển Cu Đê. Gần 80% chiều dài của sông chảy trên địa phận của huyện Hòa Vang (30km).

Sông Cu Đê được Quốc sử quán triều Nguyễn ghi lại khá rõ trong sách Đại Nam nhất thống chí: “Sông Cu Đê ở cách huyện Hòa Vang 18 dặm về phía bắc, có hai nguồn, một trên núi Đại Giáo Lao thuộc phủ Thừa Thiên, chảy đến đổ vào vực ngã ba, đấy là nguồn nước phía tây bắc; một ngọn từ núi Trà Ngạn ở trong Man chảy đến, cũng đổ vào vực ngã ba, đấy là nguồn nước phía tây nam. Hai ngọn hợp lưu ở vực ngã ba chảy qua xã Cu Đê. Đến đây nhận thêm nước của sông Hoa Ổ chảy vào làm thành sông Cu Đê đổ ra cửa biển Cu Đê” (trang 362).

Năm 1868, cụ Tú tài Trần Nhật Tỉnh (người làng Quan Nam nay thuộc xã Hòa Liên) đã theo sông lên tận đầu nguồn để khảo sát và bổ sung thêm nhiều thông tin thú vị được ghi lại trong sách Hòa Vang huyện chí của ông.

Trầm tích lịch sử Cu Đê

Cửa sông Cu Đê là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.

Phía bờ nam sông Cu Đê, nay thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, dưới chân tháp Trà Bi (tháp Xuân Dương) có một ngôi mộ cổ, được người dân làng Nam Ô, phường Hòa Hiệp Bắc gọi là mộ Tiền hiền… Tương truyền đây là ngôi mộ của một vị tướng dưới trướng của Thượng tướng Trần Khắc Chung.

Tháng 10-1307, sau khi cứu Huyền Trân công chúa thoát khỏi giàn hỏa, quân Đại Việt giong thuyền thẳng tiến về Thăng Long. Do quân thủy bộ của Chiêm đuổi theo, mùa này lại có gió bấc thổi mạnh nên đến cửa Đại Chiêm, thuyền phải bỏ biển để đi theo đường sông Cổ Cò. Đến Đà Nẵng, quân Đại Việt lên bộ, định vượt đèo Hải Vân. Đến bờ nam sông Cu Đê, vị tướng tình nguyện ở lại ngăn quân Chiêm. Vị tướng và 200 quân đã chiến đấu anh dũng nhưng cuối cùng phải hy sinh. Thời gian chiến đấu cũng đủ để đoàn quân Đại Việt đưa công chúa qua đèo một cách an toàn, thoát khỏi sự truy đuổi của quân Chiêm. Dân làng đã đưa thi hài ông về chôn dưới chân tháp Trà Bi và tôn làm tiền hiền của làng.

4 năm sau, theo sách Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang, năm 1311, vua Trần Anh Tông đã cùng các tướng Trần Quốc Chấn, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Đoàn Nhữ Hài đem quân đi đánh Chiêm Thành. Khi sắp khởi hành thì sứ thần Chiêm là trại chủ trại Cu Chiêm (Cu Đê) đến nạp cống phẩm của vua Chiêm là Chế Chí. Đoàn Nhữ Hài đã ra lệnh cho sứ về bảo Chế Chí phải đến để thần phục. Vua Trần chia quân làm 3 đạo Nam tiến. Đến cửa sông Cu Đê đã bắt được Chế Chí đưa về an trí ở Gia Lâm và phong cho em Chế Chí là Chế Năng tạm thời trông coi việc nước.

Trong cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông vào năm 1471, dọc sông Cu Đê là một phòng tuyến quan trọng, cửa sông là một đồn kiên cố của người Chiêm, trấn giữ cả hai mặt thủy bộ từ đèo Hải Vân tràn xuống và theo đường thủy từ vịnh biển Đà Nẵng đổ vào. Ngày 6 tháng Giêng năm 1471, đạo quân tiên phong do tướng Cang Viễn chỉ huy vượt đèo Hải Vân, tập kích vào phòng tuyến Cu Đê bắt sống được viên tướng giữ trấn là Bồng Nga Sa. Đột phá khẩu được mở tạo điều kiện cho hai đạo quân thủy, bộ cùng ồ ạt tiến vào đất Chiêm.

Trận đánh vào trấn Cu Đê trên sông Cu Đê vào ngày mùng 6 tháng Giêng 1471 là trận đánh nhỏ nhưng chiến thắng của nó lại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây là trận đánh mở màn cho một chiến dịch lớn, tạo ra được một đột phá khẩu, một bàn đạp để quân Đại Việt yên tâm thẳng tiến về phương Nam, đưa biên giới Đại Việt vào tận đèo Cù Mông và hình thành vững chắc vùng đất Quảng Nam.
Năm 1635, khi Nguyễn Phước Nguyên mất, Nguyễn Phước Lan lên kế vị. Nguyễn Phước Anh lúc này đang là Tổng trấn Quảng Nam muốn tạo phản bèn lập một phòng tuyến dọc sông Cu Đê từ núi ra đến biển để ngăn quân đội từ Phú Xuân vào. Nhờ sự nội ứng của viên Ký lục họ Phạm, quân Nguyễn Phước Lan mới hạ được lũy Cu Đê của Nguyễn Phước Anh. Xứ Đàng Trong vì vậy được giữ vững.

Năm 1775, khi quân Trịnh tấn công vào Phú Xuân, chúa Nguyễn Phước Thuần phải chạy vào Quảng Nam và chọn cửa sông Cu Đê làm chiến lũy để Đông cung Nguyễn Phước Dương ở lại chống giữ quân Trịnh, còn mình thì cùng hoàng tôn Nguyễn Phước Ánh chạy vào Gia Định. Khi quân Hoàng Ngũ Phúc tấn công vào đây Hoàng tôn Dương phải bỏ chạy.

Dưới thời Nhà Nguyễn, bờ nam sông Cu Đê được xây dựng thành một đồn kiên cố nằm trong hệ thống phòng thủ Đà Nẵng gọi là tấn biển Cu Đê. Nói về tấn biển này sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Ở cách huyện Hòa Vang 27 dặm về phía bắc, tức chỗ cửa sông Cu Đê. Cửa lạch rộng 25 trượng thủy triều lên sâu 4 thước 5 tấc, thủy triều xuống sâu 3 thước. Đầu đời Gia Long đặt một viên Thủ ngữ và thủ dân để tuần phòng ngoài biển, xét hỏi những người đi lại. Năm Ất Mùi (1775), Duệ Tông chạy vào Gia Định để Đông cung Dương giữ Cu Đê tức là chỗ này; năm Đinh Tỵ (1801) đầu thời Trung hưng, đại quân tiến đánh Đà Nẵng, sai Nguyễn Văn Trương đem binh thuyền đến đây để giữ chỗ hiểm…” (trang 372, 373).

Trong trận chiến chống Pháp năm 1858, vào ngày 16-1-1860, quân của tướng Nguyễn Thao từ tấn Cu Đê đã hợp cùng quân của Trần Đình Túc (đồn Hóa Ổ) và Thống chế Nguyễn Trọng Thao (đồn Hải Vân) hai mặt tấn công quân Pháp, khai thông con đường từ chiến trường Đà Nẵng về kinh đô Huế.

Vậy là, dọc theo dòng sông Cu Đê hiền hòa có thể bắt gặp hàng chục di tích ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.

LÊ THÍ
 

.