Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn xử lý vướng mắc về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

.

Ngày 28-5, Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản thông tin về hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường về xử lý vướng mắc về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) liên quan đến Kết luận 2852/KL-TTCP ngày 2-11-2012 của Thanh tra Chính phủ.

Theo đó, ngày 25-2-2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 861/BTNMT-TCQLĐĐ đề nghị UBND thành phố Đà Nẵng chỉ đạo kiểm tra các hồ sơ đã cấp GCNQSDĐ trước đây, căn cứ vào hồ sơ giao đất, cho thuê đất và quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp GCNQSDĐ để xác định thời hạn sử dụng đất cụ thể.

Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp được xác định thời hạn ổn định lâu dài trong giai đoạn thực hiện Luật Đất đai năm 2003 hoặc Luật Đất đai năm 2013 chỉ đối với trường hợp giao đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy định của pháp luật đất đai năm 1993 (theo quy định tại Điều 29 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; điểm 1.1, khoản 1, mục II của Thông tư số 01/2005/TTBTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định số 181/2004/NĐ-CP; khoản 5, Điều 210 của Luật Đất đai năm 2013 và khoản 1, Điều 38 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013).

Đối với trường hợp xác định thời hạn sử dụng đất không đúng quy định của pháp luật đất đai, mà người được cấp GCNQSDĐ chưa chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, thì thực hiện thu hồi GCNQSDĐ đã cấp và cấp lại GCNQSDĐ cho người sử dụng đất theo quy định (tại điểm d, khoản 2 và khoản 3, Điều 106 của Luật Đất đai; điểm b, khoản 4, khoản 7 và khoản 8, Điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 56, Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai).

Trường hợp thời hạn sử dụng đất được xác định không đúng quy định của pháp luật đất đai, nhưng người được cấp GCNQSDĐ đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật về đất đai, thì cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ không thu hồi GCNQSDĐ đã cấp; việc thu hồi GCNQSDĐ chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của TAND đã được thi hành theo quy định (tại điểm d, khoản 2, Điều 106 của Luật Đất đai và khoản 5, Điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; việc thu hồi GCNQSDĐ chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của TAND đã được thi hành theo quy định tại khoản 6, Điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP).

Đối với đề xuất cho phép điều chỉnh mục đích sử dụng đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp trên GCNQSDĐ đã cấp thành đất ở đối với trường hợp đã cấp GCNQSDĐ mục đích sản xuất kinh doanh, thời hạn ổn định lâu dài theo đơn giá đất ở là không có căn cứ để thực hiện. Việc chuyển từ đất sản xuất, kinh doanh sang đất ở được thực hiện theo thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành.

Sở Tài nguyên và Môi trường cho biết, sau khi nhận được văn bản hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sở đã chỉ đạo các đơn vị liên quan rà soát và có báo cáo UBND thành phố để xem xét chỉ đạo thực hiện trên cơ sở hướng dẫn về chuyên môn của Bộ Tài nguyên và Môi trường và thực tiễn của Đà Nẵng.

HOÀNG HIỆP

;
;
.
.
.
.
.