.

Người vẽ quá khứ

.

Lặng lẽ, miệt mài trên hành trình sáng tạo, họa sĩ Phan Ngọc Minh luôn gửi gắm tình yêu cháy bỏng về những miền di sản. Người xem bắt gặp trong tranh của ông là sự tiếc nuối, vẻ u hoài với những giá trị văn hóa dân tộc phần nào đang mai một.

Nhiều người nói Minh tự làm khó mình khi chọn các di sản văn hóa làm đề tài để sáng tác. Ông chỉ cười, bảo đó là định mệnh.

Chân dung họa sĩ Phan Ngọc Minh. (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Chân dung họa sĩ Phan Ngọc Minh. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Duyên nợ với nghiệp vẽ

Đã rất lâu rồi, thật khó bắt gặp Phan Ngọc Minh chén tạc chén thù trong các cuộc nhậu hay ở những chốn đông người. Ông sống lặng lẽ, dành hết nhiệt huyết và sức lực cho những mảng màu tại căn nhà nhỏ trên đường Nguyễn Hoàng, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Mái tóc xoăn và chòm râu làm ông già hơn so với tuổi 57. Khuôn mặt xương xẩu với đôi mắt sáng khiến người quen dễ nhận ngay ra ông. Khắt khe với chính mình, tiết kiệm từng giây từng phút, kiệm cả lời nói, bởi ông ý thức được cái hữu hạn của thời gian và chạy đua với nó để lao động nghệ thuật cật lực, đánh dấu ý nghĩa cuộc đời mình bằng những tác phẩm giá trị.

Cái định mệnh mà ông gọi vui bắt đầu từ khi cậu bé Minh và đám bạn cùng làng đi xem tuồng vào dịp Tết. Cái định mệnh ấy đã thôi thúc cậu bé cả đêm không ngủ chỉ để vẽ lên giấy, lên nền đất cái mặt nạ tuồng với niềm vui sướng, hân hoan một cách thơ ngây. Rồi hình ảnh những con rồng, con phụng tại các nhà thờ, đình miếu ở làng quê nghèo tại vùng đất Gò Nổi (huyện Điện Bàn, Quảng Nam) của Minh luôn ám ảnh cậu trong từng giấc mơ. Đam mê những nét cọ, những mảng màu, Minh tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, khoa Sơn dầu vào năm 1991 và chọn mảng di sản văn hóa làm lối đi cho mình.

Những di sản

Triển lãm “Ký ức phố xưa” của Minh diễn ra tại Đà Nẵng vào năm 1994 tái hiện lại cảnh sắc, con người Hội An (Quảng Nam) như món quà dành tặng cho phố Hội- sông Hoài. Và ở đó, Minh đã gọi tên được cái hồn của phố cổ. Cái hồn ấy không thể cầm nắm được và chỉ có ở những người trải nghiệm, hiểu rõ, yêu những ngõ nhỏ, phố nhỏ bằng tình yêu tha thiết. Những ông già bán chí mà phù (chè mè đen) vào những buổi sớm mai, cái dáng chậm rãi, khoan thai của bà già bán quạt, hay hình ảnh những ly nước chè xanh ngọt mát của bà già bày bán bên vệ đường..., đó là những con người làm nên hồn phố qua góc nhìn của Minh. Dường như ông đang cố gắng níu giữ ký ức, nâng niu những giá trị mà ông sợ chỉ cần tuột tay sẽ vỡ tan. Trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ đã rung lên trước sự hữu hạn của đời người, trước quy luật có - không, và trước sự phai tàn theo thời gian. Minh từng tâm sự rằng, với hình ảnh ông già bán chí mà phù, 20 năm trước khi có triển lãm, ngòi bút của ông cứ ngọ nguậy trên trang giấy và không thể phác họa nên hình nên dáng được. Phải 20 năm sau, khi thăm lại Hội An, ông mới hoàn thành bức vẽ hằng ấp ủ.  

“Vũ điệu Chămpa” tái hiện vẻ đẹp cổ xưa của những vũ nữ Chămpa (tranh được triển lãm tại Trại triển lãm mỹ thuật ở Mỹ tháng 7-2011-ảnh trái) và Những mũi tên đời tôi (Acrylic trên vải).
“Vũ điệu Chămpa” tái hiện vẻ đẹp cổ xưa của những vũ nữ Chămpa (tranh được triển lãm tại Trại triển lãm mỹ thuật ở Mỹ tháng 7-2011-ảnh trái) và Những mũi tên đời tôi (Acrylic trên vải).

Giờ đây Hội An nhộn nhịp, tấp nập khi trở thành Di sản văn hóa thế giới. Nhưng Minh chợt mang mác buồn, cứ như vướng víu cảm giác mất mát. Ông liền cất Hội An vào một góc khuất tâm hồn và tìm về miền yên tĩnh hơn, đó là  Thánh địa Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, Quảng Nam). Ở vùng đất mới, ông lại lao vào khám phá, tìm tòi, nghiên cứu các tư liệu lịch sử. Ông quan niệm rằng vẽ di sản cũng là học về lịch sử dặm dài của đất nước. Và ông vẽ, như người mắc nợ cuộc đời, mắc nợ lịch sử văn hóa dân tộc.

Sau nhiều năm được ấp ủ, thai nghén, triển lãm “Nhật ký Mỹ Sơn” đã ra mắt công chúng vào tháng 9-1998. Để có hơn 40 bức tranh sơn dầu trình làng, Minh đã rong ruổi khắp dải đất miền Trung, từ các tháp Bàng An, Đồng Dương, Chiên Đàn (Quảng Nam), Po Nagar (Nha Trang), Po Klong Garai, Po Rome (Ninh Thuận), cho đến những làng Chăm có nghề gốm truyền thống (Bàu Trúc), dệt thổ cẩm (Mỹ Nghiệp), nhập cuộc vào các lễ hội như Tết Katê, lễ hỏa táng của người Chăm... Và thế giới dĩ vãng một lần nữa được tái hiện trong tranh của ông, khắc khoải với những điệu múa thần linh mờ ảo giữa nền gạch điêu tàn của Mỹ Sơn.

Hoài cổ trên đất Mỹ

Cô đơn cũng là một trạng thái thú vị của người nghệ sĩ. Sống sâu trong thế giới của chính mình, người nghệ sĩ sẽ đến gần hơn với thế giới của mọi người. Minh cho rằng mình hạnh phúc trong sự đơn độc để sáng tạo ấy. Bởi vậy, người ta thường thấy ông với chiếc túi vải trên vai, một mình lặng lẽ rong ruổi và vẽ từ Hội An, Mỹ Sơn, đến Huế... Ông mang sự cô đơn trong hành trình đến Mỹ tham gia khóa sáng tác, trao đổi, giao lưu với tư cách là họa sĩ đoạt giải thưởng hạng nhất (Winner) của Hiệp hội Họa sĩ châu Á vào tháng 7 vừa qua. Đề tài của ông mang đến chốn hoa lệ này cũng là thế giới quá vãng gọi về từ những miền di sản của đất Việt, nhưng cách thể hiện khác hơn. Vẫn là hình ảnh những con rối và màu vàng, màu rêu xanh nghít đặc trưng của Hội An. Vẫn là hòn đá, màu núi, màu rêu phong trên tháp cổ ở Mỹ Sơn hay sắc màu lam hoàng tộc của Triều Nguyễn ở các kinh thành Huế..., nhưng các mảng màu được tiết kiệm một cách tối đa, 2 gam chủ đạo là trắng và đen. Những mảng màu đỏ và vàng được điểm xuyết trong nhiều tác phẩm gợi sự liên tưởng sâu xa. Đặc biệt, hình ảnh những mũi tên được ông sử dụng khá nhiều và lạ.

Minh là người duy nhất được chọn để triển lãm tranh trong số gần 60 họa sĩ ở nhiều quốc gia có mặt tại trại sáng tác. Ký ức vàng, Nhịp điệu gốm, Những mũi tên đời tôi... là những tác phẩm được người xem rất tâm đắc. Sự liên tưởng của Minh trong sáng tác đã đưa ông đến gần hơn với người xem, để cùng nhận được sự đồng điệu, sẻ chia và tác phẩm trở nên thăng hoa. Khi vẽ đến những con tứ linh trong kiến trúc Triều Nguyễn ở Huế, ông liên tưởng ngay đến những con voi, rắn, chim thần Garuda trong nghệ thuật Chămpa. Hay màu vàng thẫm của mùa thu ở Huế cũng làm ông liên tưởng đến mùa thu ở Hội An, Mỹ Sơn...

Thế giới nghệ thuật của Phan Ngọc Minh là thế giới đẹp, hoài cổ, đơn độc và lấp lánh những giá trị nhân văn. Mà cái đẹp của những di sản, của những giá trị nhân văn thì luôn vĩnh cửu trong lòng biết bao người.

PHƯƠNG TRÀ
 

;
.
.
.
.
.