Về nhà văn nữ hy sinh ngày 8 - 3

.

Tôi đã đọc “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”. Bây giờ là “Nhật ký Dương Thị Xuân Quý”. Một người là bác sĩ, một người là nhà văn. Họ đều ra đi từ Hà Nội, đều chiến đấu ở chiến trường Khu 5, đều ngã xuống vào năm 28 tuổi. Chỉ có khác, lúc hy sinh, chị Trâm chưa lập gia đình; còn chị Quý đã là người mẹ:

“Lòng tôi chợt quặn đau
Mắt tôi mờ bóng khói
Ngoảnh nhìn về phía sau
Con vẫn như đang gọi”

                        (“Bài thơ tặng con”, Dương Thị Xuân Quý)

Cả chị Trâm và chị Quý, khi vượt Trường Sơn vào chiến trường đều với quyết tâm cao nhất, với khát vọng đẹp nhất. Nhưng chị Quý ra đi với nỗi đau thầm lặng của một người mẹ mà chị chỉ biết thổ lộ qua những trang nhật ký. Bởi có quá ít người mẹ phải đi chiến trường trong hoàn cảnh như chị Quý: chồng đã đi chiến trường trước mình, con thì còn quá bé dại, phải gửi nhờ bà ngoại nuôi nấng.

Cái gì đã thôi thúc chị Quý ra đi trong hoàn cảnh ấy? Đó chính là một khát vọng lớn về văn học. Không thể viết về chiến tranh nếu chưa thực sự nếm trải chiến tranh. Mà với đất nước ta những năm tháng ấy, hiện thực lớn nhất là chiến tranh, số phận lớn nhất là chiến tranh. Chiến trường không chỉ thử thách, mà còn là nơi đào luyện những văn tài.

Là một nhà văn trẻ, chị Quý khao khát viết những trang văn có sức nặng thực sự về nhân dân mình, đất nước mình. Có 7 năm là phóng viên Báo Phụ nữ, chị Quý đã có không ít bài báo, những truyện ngắn và bút ký được dư luận chú ý, trong đó có những tác phẩm viết từ tuyến lửa Khu 4. Nhưng với chị, như thế vẫn chưa đủ. Chị khao khát đi chiến trường, để thực sự tắm mình vào cuộc chiến đấu, để mỗi tác phẩm mình sẽ là mỗi thôi thúc từ nội tâm, mỗi từng trải, mỗi trang trải cùng nhân dân và đồng đội ở tại những nơi ác liệt nhất của cuộc chiến.

Có thể nói, nếu nhật ký của chị Trâm cho ta hình dung về cuộc chiến đấu mà chiến trường không chỉ trên địa bàn Đức Phổ (Quảng Ngãi) mà còn trong nội tâm một nữ trí thức trẻ giàu xúc cảm đầy nghị lực nhưng cũng có những phút rất yếu đuối như mọi người phụ nữ bình thường khác, thì nhật ký chị Quý lại cho ta thấy những giằng xé trong tâm hồn giữa một người mẹ và một nhà văn nhiều khi khốc liệt như thế nào.

Là một phụ nữ, một nhà văn cực kỳ kiên nghị, nhưng chị Quý còn là một người mẹ trẻ vô cùng thương con phải rời bỏ đứa con chưa đầy 2 năm tuổi của mình: “Ôi thương Ly vô hạn. Cứ nghĩ vậy là mình lại khóc. Khổ thân con quá. Đời con có cái mốc thật kỳ lạ. Đẻ ra vừa biết cười là bom đạn. Vừa biết cười lên tiếng là xa bố, vừa nhú răng là sơ tán. Vừa biết gọi mẹ là xa mẹ và vừa biết nói hai tiếng thì nói “Đi Nam” (trích “Nhật ký” ngày 15-12-1968). Những đoạn viết về con trong “Nhật ký” đọc lên thật khó ai cầm lòng. Đau ruột lắm! Nó cứ nhấn đi nhấn lại day dứt suốt quyển nhật ký này.

Tôi đã đọc nhiều trang “Nhật ký” của chị Quý như đọc những trang thơ, những trang thơ - văn xuôi. Biết đâu, nếu còn sống và khi đã trải qua những ác liệt nhất ở chiến trường, chị Quý chẳng lại làm thơ ? Và không chừng, thơ chị lúc đó còn hay hơn cả thơ của chồng chị? Có một chi tiết về nhà văn này mà tôi rất thương, rất chia sẻ: chị Quý rất thích bói Kiều. “Còn tao, Nhàn ạ, hôm nọ tao bói Kiều cho tao gặp đoạn này: “Vì ai ngăn đón gió đông/ Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi/ Trùng phùng, dù họa, có khi/ Thân này thôi thế còn gì mà mong/ Đã sinh ra số long đong/ Còn mong lấy kiếp má hồng được sao”… Tao viết thư cho ông Quốc ở Quảng Đà, ông ấy cáu và cấm tao không được lẩn thẩn bói Kiều nữa. Buồn cười.” (trích thư Dương Thị Xuân Quý gửi Phan Thị Thanh Nhàn).

Với tôi, mỗi dòng “Nhật ký” của nhà văn - liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý nặng tựa Thái Sơn. Bởi nó đã chạm tới nỗi đau, tới chiều sâu thẳm của số phận con người trong chiến tranh. Kẻ thù đã chặn đứng những dòng chữ sắp viết của chị. Xin cho bình an vĩnh cửu trên linh hồn chị!

Chị Dương Thị Xuân Quý đã hy sinh đúng ngày 8-3 (Ngày Quốc tế Phụ nữ hay còn gọi là Ngày Liên Hợp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế ). Có một nhà văn nữ Việt Nam đã hy sinh đúng vào ngày Quốc tế Phụ nữ ấy. Hy sinh cho đất nước. Và hy sinh để thể hiện khí phách của người phụ nữ Việt Nam.

THANH THẢO

;
;
.
.
.
.
.