TRUYỆN NGẮN

Người dưng đất lạ

.

Xứ nào có người thương đều là quê hương xứ sở, Phú nhớ mang máng từng nghe một câu tương tự như thế trong một bộ phim nào đó đã xem. Nên chi mỗi lần có ai thắc mắc can cớ chi bỏ xứ ra đây, anh thường nói rành rẽ, tại có người tui thương. Thiên hạ thắc mắc tiếp, anh này lạ lùng, “thuyền theo lái, gái theo chồng” mắc mớ chi anh không đem người anh thương vô xứ trong ở với mẹ già. Phú lại cười hiền, biết trả lời mấy cũng dễ chi vừa lòng thiên hạ. Thôi, cười cho xong chuyện.

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

Người thương của Phú cũng từng thắc mắc, nghi ngờ và đuổi anh mấy bận mà anh không về quê đó chớ. Đâu phải chị ích kỷ, khư khư giữ anh bên mình. Trách nhiệm con trai một, trách nhiệm chăm sóc mẹ già anh không hoàn thành thì chị cũng đâu sung sướng chi. Nhưng nói thế nào Phú cũng không nghe. Tính Phú lạ lắm, anh hiền khô, hiền nhưng có chính kiến và không hề nhu nhược. Tình cảm mà không yếu đuối. Nói về Phú, chị chỉ biết đó là người đàn ông hoàn hảo. Biết rõ so sánh sẽ không hay nhưng mà đàn ông người miền trong như Phú khác biệt lắm với đàn ông xứ mình. Tư tưởng của họ phóng khoáng, thoải mái hơn nhiều.

Việc nhà chị đã trở thành đề tài cho chòm xóm có chuyện để nói mỗi khi gặp nhau. Hồi đó, người làng xầm xì, có khi chị bỏ bùa anh. Như thi thoảng gặp mấy cảnh đời “trai tân lấy gái nạ dòng”, người ta vẫn nghi ngờ hệt vậy. Chuyện tình của anh chị càng khó tin hơn, viết thành tiểu thuyết chắc bán sẽ chạy, làm phim hẳn được vài bộ lâm ly.

Hồi mới gặp chị, Phú nói thủ thỉ, ý là hãy để Phú thương chị, lấy chị làm vợ được không? Chị cười khan, nghĩ thằng cha này có vấn đề. Mặt mũi sáng rạng, đẹp trai chứ đâu đến nỗi. Nghĩ chi mà đòi theo mình. Nhưng cái câu tỏ tình đó hệt như gáo nước mát lành vỗ về thân thể chị sau những lúc rã rời mỏi mệt. Chị chợn vợn, nghĩ suy về câu nói không chút cười cợt, có vẻ nghiêm túc đó của chàng trai Nam Bộ ở trọ cạnh nhà.

Với chút mơ màng hay tưởng tượng của đàn bà, đêm về soi gương, chị lại ngẫm có khi mình duyên ngầm, mình gây thu hút, mình có nét đặc biệt mà đám trai làng không nhận ra. Kiểu vậy. Chị gõ trán, bật cười cho ý nghĩ ấy, ui trời, lỡ đâu thằng cha chỉ giỡn mà ngồi đây ảo tưởng thì ê mặt lắm. Nhưng nghĩ tới, nghĩ lui lại cười, thấy vui vui lạ lùng. Chị bắt đầu để ý hơn mỗi lúc ra ngoài, áo quần chọn những bộ màu sáng, tóc hay xõa nhẹ, hay cười lúng liếng bâng quơ.

Mẹ chồng chép miệng, hay nó biết cái khoảnh đất nhà mình có giá trị chi đó mà mình không thấy hả con. Chị ôm bụng cười, đất nhà mình chưa bằng góc nhà họ, trong kia đất người ta cũng cò bay thẳng cánh mẹ ơi. Hay nó dòm cái nhà này, à, chắc không phải, mẹ nói rồi tự nhủ khi ngó lại căn nhà ọp ẹp chẳng lấy chi làm giá trị của mình. Nhìn cũng đáng tin nhưng tốt nhất vẫn nên e dè, đề phòng nghe con, mẹ chồng chị dặn.

Hơn ai hết, bà chính là người luôn xúi chị đi bước nữa. Năm năm từ ngày chồng mất, chị đã rất vất vả khi vừa làm mẹ, làm cha, vừa làm con trai, vừa làm con dâu. Thằng Nhất còn nhỏ, mẹ thì đau buồn quá nên thành ra lẩn thẩn, lúc nhớ lúc quên. Dạo gần đây, hình như Phú ghé nhà nhiều hơn, nói chuyện hợp với bà nên bà có phần vui vẻ và bắt đầu nói vô cho Phú.

 Có bận đi làm về, chị vừa tới cổng đã thấy thằng Nhất hớn hở chạy ra khoe, anh Phú cho con mấy bịch kẹo dừa với bộ xếp hình nữa. Trời ơi, chị thấy xấu mặt quá. Đó, mẹ coi thằng Nhất gọi người ta bằng anh, vậy mà đòi… Mẹ chị nạt cháu rồi cười, nó không để ý thì con chấp nhặt làm chi cho nặng nề.

Hồi chồng tai nạn rồi nằm liệt giường hơn ba năm, chị đã hình dung cuộc sống của mình sau này sẽ vô cùng khốn khó. Biết vậy, nhưng lúc nào chị cũng vui vẻ, hoạt bát để anh vui. Sớm ra lau người cho anh, nắn từng ngón tay, ngón chân rồi kể chuyện này chuyện kia. Chị tin là anh biết, anh hiểu dù không thể hiện bằng cái chớp mắt hay gật đầu. Đôi người khuyên nên rút ống thở đi, kéo dài chỉ hao tốn tiền của và sức lực của người nhà chứ thật sự đâu còn chút chi hy vọng, chị kiên quyết không. Vay mượn cùng khắp chị vẫn cố lo cho anh đến giây phút cuối cùng.

Từ ngày chồng mất, chị đã nghĩ lòng mình sẽ thôi xao động, chẳng còn thổn thức trước một người đàn ông nào nữa. Tới khi gặp Phú, nghe anh nói vài ba câu cảm động, tự nhiên thấy mình như quả bong bóng căng tròn bỗng chốc xẹp lép bởi mất hết hơi, bao cố gắng để mạnh mẽ không còn muốn hiện hữu, thay vào đó cũng muốn dựa dẫm, muốn tựa vào ai đó tới cuối đời. Nhưng nghĩ tới lui lại thấy có lỗi với chồng, rồi còn Phú, anh còn trẻ, chắc chi đã hiểu chuyện. Nếu tình cảm ấy là thật, có khi chỉ trong phút giây nông nổi nhất thời mà thôi.

Phú khó khăn lắm mới chứng tỏ cho chị thấy anh là người… bình thường. Nghĩa là đầu óc không có vấn đề chi, suy nghĩ này chín chắn, quyết định này đúng đắn. Tuy vậy, trong mắt thiên hạ, Phú đâu bình thường. Người ta coi thử anh Phú ở trong nhà đó được bao lâu. Từ lúc con Nhi ra đời, thằng Nhất học hết cấp một rồi đến khi con Nhi đi học, thằng Nhất chuẩn bị tốt nghiệp cấp ba, mãi vẫn không thấy Phú bỏ đi. Người làng dần dần tin, hẳn trên đời có tình yêu cao thượng. Tình yêu đó không bất chấp tuổi tác, chênh lệch ngoại hình hay đời sống ngổn ngang của nhau. Và cách Phú đối đãi với chị đã cho người ta thấy, hóa ra người đàn bà đi qua cơ cực đớn đau đều xứng đáng được bù đắp yêu thương bất tận.

Phú vẫn nghĩ, má có còn thì cũng hiểu cho thằng con trai vốn hay động lòng, dễ cảm xúc. Hồi nhỏ, coi phim thấy cảnh người ta trùng phùng hội ngộ hay chia lìa đôi lứa, thằng con trai năm tuổi của bà đã chảy nước mắt sụt sùi trước khi diễn viên rớt lệ. Bà thở dài, đàn ông đàn ang mà cứ thế này, chỉ khổ thôi. Hai mươi tuổi, thương một người con gái mà họ bỏ đi lấy chồng, Phú đã khóc như mưa. Bảo đời này không lấy vợ, ở với má suốt đời. Má vỗ về thằng con to xác mà yếu đuối của mình, ừ, ở với má cũng không sao. Sau này theo bạn ra đây làm công trình, anh nhắn với má đã thương một người khác và muốn gắn bó với họ ở đây, má thấy bình thản chứ không ý kiến chi. Miễn con mình vui và hạnh phúc. Lúc ấy má biết rõ mình mang bệnh trong người còn Phú mải miết theo đuổi người ta nên đâu hay. Mâm cơm làm lễ để Phú về một nhà với chị diễn ra đâu được vài ba tháng thì má anh mất. Chị càng thương anh hơn.

Ấn tượng của Phú với phụ nữ xứ này là họ rất giỏi giang, đảm đang lại kiên cường hơn chi. Chồng chết, ở vậy nuôi con, nuôi cả mẹ chồng mà chẳng thấy u sầu buồn bã, lúc nào cũng cười vui xởi lởi, lạc quan yêu đời. Chuyện trò vài bữa mà Phú thấy mến chị quá chừng. Chút mến mến rồi thành thương khi sớm ra, lúc anh đang ngồi uống cà-phê đã thấy chị bán xong thúng bún nghệ rồi lóc cóc đạp xe về. Lo cơm nước, giặt giũ cho hai bà cháu xong, chị lấy xe đi mua nhôm nhựa. Có bữa thấy chị chở xe hàng to đùng ở sau, bữa đó gió về nên cả xe và người cứ nghiêng ngả. Phú hốt hoảng chạy ra đỡ cho chị. Hỏi chị sao không mượn ai chở, đi thế này nguy hiểm lắm, hỏi xong lại thấy vô duyên, bán buôn lời mấy đồng bạc, ai dám thuê người.

Sau này về với nhau, chị không phải gánh gồng một mình nữa. Cứ cuối ngày, sau khi xong việc của mình, Phú dắt xe đi chở hàng cho chị, chưa bao giờ la cà hàng quán như chồng người ta. Bữa vừa qua cơn vượt cạn, chị xin lỗi Phú rồi chảy nước mắt. Anh ngạc nhiên, tại sao mình xin lỗi tôi. Vì tôi không sinh cho Phú được thằng con trai, tuổi tôi giờ cũng lớn rồi. Phú cười, vậy là mình vẫn chưa hiểu tôi, con nào mà chẳng là con, tôi thích con gái bởi nó sẽ giống mình. Còn con trai, mình có thằng Nhất đó rồi.
Vài lúc tỉnh táo hiếm hoi, mẹ chồng cầm tay chị rồi nói, trên đời chắc chỉ có thằng Phú mới được rứa đó con. Ông trời có mắt. Mẹ nói rồi khóc. Chị cũng cảm động với tấm chân tình Phú dành cho mình, dù thật sự, cứ mỗi tối đi ngủ chị cứ chập chờn lo sợ, biết đâu đêm nay Phú bỏ mình đi. Mỗi sáng thức giấc, lại nghĩ có hồi nào mình mở mắt ra, ngó qua thấy gối bên cạnh trống không lần nữa. Sinh xong, dù cố đến mấy chị cũng không cưỡng được tuổi già đang ngấp nghé. Da dẻ chị bắt đầu nhăn nheo, tóc lấm tấm vài ba sợi bạc. Đi đâu cùng Phú, chị thường nhích nhẹ ra xa bởi sợ sự so sánh nào đó của người đời. Chị giấu nỗi hoang mang, lo sợ của mình nhưng Phú cảm nhận được. Anh ôm chầm lấy chị, mình đừng lo, tôi ở đây với mẹ con mình tới khi chết.

Một đời sống vất vả, vui vẻ an nhàn chưa được bao lâu, thế mà chị trở bệnh. Mới đầu đau râm ran trong bụng nhưng chị nghĩ không can chi, cứ chủ quan rồi không đi khám. Tới hồi đau quá mới để Phú đem đi bệnh viện, bác sĩ kết luận bệnh đã vào giai đoạn cuối. Chị đón nhận án tử với tâm thế nhẹ nhàng, cười vui với Phú, tôi biết tôi sẽ chết trước mình mà. Tại tôi lớn tuổi hơn. Phú không thể cười trước câu bông đùa của chị.

Dù lạc quan và tìm mọi cách chữa trị nhưng cũng chỉ kéo dài sự sống được năm tháng. Hôm đưa chị ra đồng, ai cũng khóc, khóc vì thấy Phú đứng ngẩn ngơ bên mộ chị mà không chịu về. Khóc vì mẹ chồng lúc này đã run rẩy lắm rồi vẫn nước mắt lưng tròng, chống gậy tiễn đưa con dâu. Năm đó, thằng Nhất hai mươi tuổi, bé Nhi vừa lên chín. Người làng lại có dịp lo thay chuyện nhà Phú, không biết rồi đây anh sẽ sống ra sao với mẹ chồng và con riêng của vợ rồi cả con mình.

Sau khi chị mất, bà nội thằng Nhất càng ngày càng lẩn thẩn. Thỉnh thoảng bà đến gần, cúi xuống ngó vô mặt Phú vẻ nghi ngờ, anh là ai, ở mô tới? Anh cười, là con trai bà chứ ai. Bà gật gù rồi ngó xuống bếp hỏi chưng hửng, chớ vợ anh đi đâu từ sớm mà chừ trưa trờ trưa trật chưa về. Phú hay ước, phải chi mình cũng quên được như bà, sống bằng ký ức và kỷ niệm thật vui.

Năm thằng Nhất ra nghề, anh lo liệu, tìm mặt bằng rồi mở cho nó cái tiệm sửa điện thoại nhỏ ngoài đường lộ. Hy vọng Nhất sẽ chịu khó làm ăn, rồi còn lấy vợ sinh con. Có ngờ đâu thằng cu Nhất hiền lành tự nhiên nghe theo đám bạn, ham nhậu nhẹt và cờ bạc. Kiếm được bao nhiêu, Nhất tiêu hết bấy nhiêu rồi còn nợ nần, cầm đồ của khách. Nhân bữa Phú vô quê lo giỗ cho má thì thằng Nhất về nhà vét sạch tiền bạc.

Nó xáo tung nhà cửa, tội nghiệp bà nội nằm ngơ ngác, khóc lóc kêu có trộm, có trộm. Thằng Nhất lấy tiền đi đánh bạc rồi đòi Phú đưa sổ hộ khẩu để thế chấp căn nhà. Hai cha con cãi qua cãi về, nó bảo dù chi anh cũng đâu ruột rà với nó nên coi về quê mà sống, dắt theo cả con Nhi mà đi chứ ở đây chi. Anh giận tím mặt nhưng rồi nghĩ có khi nào nó mang bệnh chi trong người cũng nên, rồi sợ phiền hà, sợ đau lòng, sợ anh chăm sóc vất vả nên mới bày trò để nói những lời xua đuổi cạn trơ vậy. Xưa nay nó tội lắm, làm chi có kiểu ăn nói ba trợn đó. Trong phim hay xảy ra mấy tình cảnh trớ trêu kiểu vậy.

Gắn bó ở đây đã mười mấy năm, Phú giờ ăn cay, ăn mặn như người miền Trung, không còn sụt sùi cảm sốt mỗi khi trở trời, đã quá quen với nắng gió gay gắt của vùng đất này. Thế nhưng, ngẫm lại lời thằng Nhất thấy cũng đúng, dù sống bao nhiêu năm hóa ra vẫn là lạ với đất đai này bởi nhau rốn mình đâu chôn ở đây. Người không máu mủ ruột rà dẫu có tâm nuôi nấng rồi thương yêu cách mấy cũng chỉ người dưng nước lã thôi. Thắp nén nhang trên bàn thờ của chị, Phú ôm mặt khóc tủi hờn. Nhi ôm lấy ba, nó bảo mai mốt sẽ không lấy chồng, sẽ ở với ba suốt đời. Con gái đưa cho Phú tờ giấy xét nghiệm của bệnh viện, đúng là thằng Nhất mang bệnh, căn bệnh từng làm chị đau đớn và mất đi.

Mất mấy ngày anh mới tìm được thằng Nhất. Cha con ôm nhau nói chuyện rồi khóc tức tưởi. Anh biết rồi Nhất sẽ không sao, bệnh phát hiện sớm nên chắc chắn sẽ có cách chữa trị. Phú trách mình hời hợt, không chú tâm đến con nhiều hơn, hóa ra thằng bé đã trưởng thành, biết lo cho mình và suy nghĩ cho cả người khác. Đúng như anh từng nghĩ, Nhất cố tình làm vậy để anh buồn chán ghét bỏ mà về quê hương bản xứ, nó không muốn Phú phải nặng gánh vì nó và cả bà nội. Dẫu gì, hai người không thuộc trách nhiệm của anh, anh chăm lo tới hôm nay là đã tốt lắm rồi. Phú mỉm cười, nhớ lời mình từng nói với người ta khi họ hỏi sao anh chia xa xứ miền trong rồi về đây ở, anh đã bảo tại nơi này có người anh thương. Hồi đó đã thương nay càng thương sâu đậm...

DIỆU ÁI

;
.
.
.
.
.
.