.

Mẹ, con và chợ Tết

Nhà tôi cách chợ Vinh vài chục bước chân. Băng qua một con đường là tới cổng chợ. Buổi sáng ngủ dậy, khi trời còn lờ mờ sương sớm, cái rét tháng Giêng còn lờn vờn trước cửa thì những bà những chị áo xanh áo đỏ đội nón trắng đã tấp nập họp chợ xôn xao. Nhìn những màu áo trong sương tựa những đốm lửa nhỏ rung rinh khi di chuyển, gọi về những ấm cúng. Ngày thường không nhớ chợ, cứ dịp đông về Tết lại là nhớ, chính vì không khí ấm cúng của buổi họp chợ sớm mai mờ sương ấy.

Nhớ chợ, là nhớ những hàng cá dọc ngang khu chợ, giọng vùng biển Nghi Lộc chen nhau trầm ít, bổng nhiều xôn xao. Những khúc cá thu, cá ngừ, cá nục nướng nóng hổi còn thơm phức mùi cá, mùi khói quyện vào nhau. Da cá, vảy cá còn lấp lánh ánh xanh tươi của biển. Quanh năm, mẹ con tôi chỉ dám chọn những khúc cá sát đuôi hoặc sát đầu (phần có giá rẻ nhất) nhưng cứ đến chợ ngày áp Tết nhất định mẹ lại chọn những miếng ngon nhất, thịt cá căng mẩy, trắng phau. Những miếng cá ấy mẹ dành biếu ông bà, các cụ già trong làng ăn Tết.

Tôi nhớ gương mặt háo hức của mẹ khi mua được những khoanh cá thơm ngon. Mẹ bảo, quê mình vùng núi, mấy khi có cá biển ngon mà ăn. Cả năm mới có dịp về quê biếu các ông các bà mỗi người vài khoanh cá, nên chọn khoanh nào khoanh nấy phải đáng. Và những khoanh cá to nhỉnh hơn bàn tay được mẹ cẩn thận gói lại trong lá chuối tươi, bọc trong bao ni-lông đẹp mắt để biếu các cụ khi về quê thắp hương mỗi dịp cuối năm. Dọc đường đi từ Vinh về Đô Lương gần 100 cây số, mẹ lại nhắc con gái những câu chuyện ngày bé bà Miêng hàng xóm đã bế con, bà Tài cho con trái cam, bà Quang cho cái bánh… Những câu chuyện nho nhỏ để con thấy mình luôn phải giữ nụ cười và thái độ lễ phép khi gặp các ông, các bà; phải hiểu bài học về sự biết ơn từ những điều nhỏ nhất, phải hiểu rằng của cho không bằng cách cho. Mà quả thực, hai Tết rồi, mẹ mất, con gái chẳng còn cùng mẹ ra chợ chọn cá cuối năm về biếu các cụ, nhưng khi gặp, bà này cụ kia vẫn nắm lấy bàn tay con gái lắc lắc, nhắc chuyện những khoanh cá thu của mẹ. Những khoanh cá ngon vì công nhiều hơn của, là món quà quý dành cho nhau mỗi độ Tết về.

Nhớ chợ, là nhớ hàng hoa phía bên lưng đền Đức Ông. Những hàng hoa khiêm tốn và kém phong phú hẳn so với chợ hoa Cửa Nam chỉ cách đó vài trăm mét, lại là hoa những nhà không chuyên trồng, có khi xen cả giữa luống rau. Những cây hoa còi cọc, khóm cúc cao chỉ hai gang tay, thược dược, hồng nhung còn lấp ló dăm ba chú sâu ăn lá. Trong những khóm hoa còn sót cả hoa cải, hoa mùi. Hoa vừa cắt từ một khu vườn nào đó ngoại thành, từ Nam Đàn, Hưng Nguyên… nhưng sắc nào ra sắc nấy, hương nào ra hương nấy. Đứng xa xa đã cảm nhận được mùi hương chứ không giống những chợ hoa được cắt từ những khu vườn chuyên canh chăm trồng hàng loạt, quanh năm phun đủ loại thuốc, sắc thắm mà hương nhạt nhòa. Mẹ vẫn mua lấy vài khóm hoa ấy về trồng trước nhà cho thêm chút sắc màu xuân mới. Mẹ cũng là người lao động chân chất, vất vả không khác gì nông dân ở phố nhưng nhất định chẳng bao giờ bà trả giá khi đi chợ Tết. Mẹ nhắc, “thiệt giỗ, lỗ Tết” mình rộng rãi chút cho người ta thêm chút tiền chút bạc mua áo mới cho con. Ở quê vất vả hơn ở phố nhiều lắm.

Nhớ chợ là nhớ những hàng áo quần đủ kiểu đủ sắc màu. Thể nào mẹ cũng rẽ qua xem mua cho Bống, Đốm – hai đứa cháu ngoại. Con gái nói, mẹ đừng mua, tốn tiền, đồ Bống Đốm vẫn còn nhiều, mặc không hết. Mẹ cười cười, kệ chứ, đồ của bà mua khác đồ người khác mua. Mua dịp Tết cũng khác mua ngày thường. Tết là dịp để quan tâm nhau. Có những tấm áo manh quần bà mua cho cháu vẫn xếp để đó, ngay ngắn trong một góc tủ. Mặc dù cháu mặc đã chật, dù bà đã đi xa, nhưng nhắc mẹ chúng nhớ như vừa mới chớp mắt hôm qua hôm kia, bà ngoại vừa mua từ phiên chợ Tết năm nào.

Mẹ tôi vẫn thường đưa than vào cho những nhà nằm sát chợ Vinh. Tết đến sực nức mùi mứt dừa, mứt gừng, mứt khoai. Mứt được sên trên những chảo gang lớn, khói bốc nghi ngút thơm phức gian bếp. Tôi vẫn theo phụ mẹ bưng bê than từ những ngày học cấp hai, bé xíu cho tới khi học năm cuối đại học. Người tôi thấp lũn tũn. Chẳng biết vì vóc dáng nhỏ hay vì ấn tượng về những ngày đầu nhỏ xíu mà lúc nào đi đưa than về cũng được các bác, các dì dúi theo cho một bịch mứt Tết nho nhỏ vừa rời bếp, còn nóng hổi, giòn rụm. Cảm giác ở trong một gian bếp đầy sắc màu, thơm ngào thơm ngạt mùi mứt Tết và ấm sực vì hơi nóng toát ra từ bếp lửa thật thích. Hơi ấm làm lấp lánh ánh mắt mẹ, làm làn da đã hằn vết thời gian vẫn kịp ửng hồng một chút.

Khi những tất bật cuối năm đã tạm gác lại, mẹ lại quay ra chợ với những túi đồ nặng trĩu, trong đó là áo ấm mùa cũ của con, váy áo của cháu đã chật… dành cho những người cuối cùng ở chợ. Những người cuối cùng ở chợ thường là những người vất vả nhất, nghèo khổ nhất, họ dành cả những thời khắc sát giao thừa để kiếm thêm chút đồng xu cắc bạc để lo cho gia đình. Và tôi nhìn thấy ánh mắt họ thoáng lên niềm vui cuối năm khi nhận những món đồ cũ đã giặt là thơm phức. Họ chia nhau món đồ phù hợp với con cháu mình, cảm ơn rối rít và chúc nhau đón một năm mới tốt lành.

Đã thật lâu rồi tôi không còn thói quen đi chợ mỗi ngày. Những cảnh báo về thực phẩm bẩn, về hoa quả nhúng thuốc, thịt cá tẩm hóa chất khiến tôi cũng như không ít người dân ngại đến chợ và sự lựa chọn là những siêu thị hoặc những nơi cung cấp nguồn thực phẩm sạch từ những người bạn mình quen biết. Dù nhà tôi nằm giữa chợ Tân Thuận và chợ Cư xá Ngân hàng, hai khu chợ tương đối lớn. Nhưng ngày Tết, nhất định kiểu gì cũng dắt con vài vòng ra chợ. Dường như chỉ để nhớ những ngày mẹ còn sống, dắt tôi bé xí lon ton chạy theo chân người. Bước mẹ thì dài, bước con thì ngắn, chợ Tết lại đông nên lúc nào cũng phải vội vã đi theo kẻo lạc.

Tôi thích nhìn theo cách ứng xử của những người bán hàng trong chợ Tết, có khi họ chỉ mới quen nhau sau vài buổi chợ nhưng nhất định không vội về khi người bên cạnh mình chưa bán hết. Họ có thể ngồi nán lại cùng rao phụ, bán giúp và chỉ đứng dậy vẫy chào nhau khi đã bán hết hoặc đã vơi đi đáng kể. Có khi họ nói với nhau những lời chao chát mà nặng lòng yêu thương: “Ô con quỷ, mày bán có được mấy đồng đâu, cầm đi, dì ba lì xì cho con về mua thêm manh áo mặc Tết” và dúi vội vào tay cô bé mới quen một phong bao tình thương mến thương. Và họ quay thuyền quay ghe đi về đầy ắp đủ đầy yêu thương cho mùa xuân mới.

Tết này lại đưa con ra chợ, có khi chỉ để mua dăm trái bưởi trái ổi miệt vườn chở lên, hoặc có khi chỉ để mua những túi vòng chun xanh đỏ tím vàng, sặc sỡ như bảy sắc cầu vồng chỉ 5.000 mỗi túi. 5.000 là một cái vé gửi xe vào quán ăn, cà-phê với bạn, bằng cả túi dây thun đủ màu cột tóc cho con suốt mấy tháng. 5.000 là khóm tỏi, khóm đậu để trên cái đĩa bán đủ cho một bữa tối gia đình công nhân. 5.000 là xấp bao thư rực rỡ đựng lì xì ngày Tết… Ở những khu chợ luôn chen lên những tiếng rao. Ở đó không có khái niệm tiền lẻ, tiền chẵn. Ở đó có những phận người khắc khổ, trong đó có mẹ tôi, cho tôi những bài học hiếu lễ, yêu thương từ ngày bé.

VÕ THU HƯƠNG

;
.
.
.
.
.