.
Phương hay Thuốc quý

Đậu ván giải độc bổ tỳ

.

Đậu ván là cây trồng lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Nhân dân thường trồng thành giàn ở đầu ngõ, góc sân, bờ ao, vừa che bóng mát, vừa để lấy quả non làm rau ăn, lấy hạt quả già để nấu chè, rang thơm nấu nước uống,… Ngoài công dụng làm thực phẩm, hạt đậu ván (Đông y gọi là Bạch biển đậu) còn là vị thuốc quý giải độc, bổ tỳ, thanh thử, trừ thấp.

“Đậu ván thử thấp giải trừ/ Bổ tỳ, tả lỵ, khí hư chữa lành”.  Ảnh: P.C.T
“Đậu ván thử thấp giải trừ/ Bổ tỳ, tả lỵ, khí hư chữa lành”. Ảnh: P.C.T

Đậu ván là dây leo sống 1-3 năm, dài tới 5m. Thân có góc, hơi có rãnh, có lông thưa. Lá kép mọc so le, có 3 lá chét hình trứng chỉ có ít lông ở mặt dưới. Hoa trắng hay tím nhạt, mọc thành chùm ở ngọn cành hay nách lá. Quả đậu màu lục nhạt, khi chín có màu vàng nhạt, đầu quả có mỏ nhọn cong. Hạt hình trứng tròn, dẹt, dài 8-15mm, rộng 6-8mm, dày 2-4mm. Vỏ màu trắng ngà, có khi có chấm đen, nhẵn, hơi bóng, ở mép có rốn lồi lên, màu trắng. Ra hoa kết quả chủ yếu vào mùa thu - đông.

Theo Đông y, Ðậu ván có vị ngọt, tính hơi ấm; có tác dụng bổ tỳ vị, điều hòa các tạng, giải cảm nắng, trừ thấp và giải độc. Nhân dân dùng quả non và hạt non, hoa và lá còn non làm rau luộc hay xào ăn. Hạt khô luộc bỏ vỏ dùng nấu chè, làm nhân bánh ăn ngon. Hạt đậu ván có thể làm tương như đậu nành, chế biến bột dinh dưỡng sau khi rang vàng bỏ vỏ hay sấy ở nhiệt độ 100-103oC trong 3-5 giờ.

Ðậu ván có giá trị dinh dưỡng cao. Phân tích thành phần hóa học cho thấy hạt đậu ván chứa nước 82,4%; protid 4,5%; lipid 0,1%, glucid 10%, tro 1%, Ca 0,25%; P 0,06mg%; Fe 1,67mg%. Có các loại đường saccharoze, glucose, stachyose, maltose và raffinose. Còn có vitamin A, B2, C và nhiều B1. Các acid amin phổ biến là tryptophan, arginin, lysin và tyrosin. Ngoài ra còn có acid L-pipecolic và phytoagglutinin.

Hạt đậu ván thường được dùng làm thuốc bổ dưỡng và tăng sức tiêu hóa, còn dùng trị cảm nắng, miệng khô khát, bạch đới, tỳ vị hư yếu, ỉa chảy, kiết lỵ, viêm dạ dày và ruột cấp tính, đau bụng, nôn oẹ; ngộ độc rượu, nhân ngôn, cá nóc…; hay ngộ độc thức ăn sinh nôn mửa. Lá được dùng chữa hóc xương, yết hầu sưng đau, đái ra máu và chữa rắn cắn. Rễ cũng dùng phối hợp với các vị thuốc khác chữa bệnh đậu lào; còn dùng chữa điên giản, đau giật, co quắp chân tay. Hoa có tác dụng kiện tỳ hòa vị, thanh thử hóa thấp, dùng chữa bệnh lị, ỉa chảy, xích bạch đới hạ.

Người ta thường dùng hạt dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, mỗi ngày 8-16g. Rễ dùng sắc uống với liều cao hơn. Lá tươi nhai ngậm với muối nuốt nước chữa yết hầu sưng đau. Lá giã nát, trộn với nước vo gạo đặc, gạn uống, còn bã dùng đắp trị rắn cắn.

Bài thuốc:

1. Cảm nắng mùa hè, miệng khát, bức rức, nôn mửa, tiêu chảy: Đậu ván (sao vàng) 120g, lá Hoắc hương 60g, cùng tán bột, mỗi lần uống 6g với nước sôi nguội, ngày 2-3 lần.

2. Ỉa chảy do tỳ hư: Đậu ván (sao) 50g, Củ mài 60g, Mạch nha (sao sơ) 30g, Sơn tra (sao cháy) 40g, cùng tán bột, mỗi lần uống 15g với nước ấm, ngày 2 lần, liên tục 3-5 ngày.

3. Bạch đới nhiều mà trong loãng: Đậu ván (sao) 15g, Củ mài 18g, Hạt mã đề 12g, Mai mực nướng 6g. Sắc uống, ngày 1 thang.

4. Tỳ hư phù thũng: Đậu ván 150g (sao vàng), tán bột mịn, uống mỗi lần 9g, ngày 3 lần, trong 3-5 ngày.

5. Lỵ trực khuẩn: Hoa đậu ván tươi 10g, Cỏ sữa nhỏ lá tươi 30g, sắc chia 2 lần uống, ngày 1 thang, trong 3-5 ngày.

6. Tử cung xuất huyết (do công năng, không do thực thể): Hoa đậu ván sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 6g với nước sôi nguội, lúc bụng đói.

7. Chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều, kinh bế lâu ngày, kém ăn mỏi mệt: Ðậu vắn sao vàng tán nhỏ, uống 10g với nước cơm; ngày 3 lần.

8. Mùa hè nóng bức, ăn uống vô vị, thân mình mệt mỏi: Đậu ván, lá Sen non nấu chè ăn, lợi thấp khai vị.

9. Khớp xương đau nhức, chân tay tê dại: Rễ đậu ván 30g, sắc kỹ với nước, chia thành nhiều phần uống trong ngày; có tác dụng giảm đau tốt.

10. Rắn độc cắn: Lá đậu ván lượng vừa đủ, thêm chút muối ăn giã nát, đắp vào vết cắn.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.