.

Thi sĩ Bích Khê với mùa thu

.

Mùa thu là tượng của thi nhân, là hương của thơ, là men của tình ái, là sắc của họa, là nhạc của đất trời, là nguồn cơn sầu tận của những bước chân cô đơn. Trong tâm hồn của thi sĩ Bích Khê, mùa thu như một chất xúc tác đã gợi lên một cảm giác mơ hồ, xa xăm. Nhớ những ngày thu, trên con đường chỉ còn gió và lá như bước chân người lãng đãng phía trời xa. Cảm giác buồn lạnh của hơi thu thúc giục người thơ phải chuyển động, cất lên những khúc nhạc du dương:

 Bích Khê (1916-1946)
Bích Khê (1916-1946)

Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi

            (Tỳ bà)

Âm hưởng bốn câu thơ trên nghe như dòng suối đang chảy róc rách trong cánh rừng vàng ngập sắc thu, tiếng đàn tỳ bà trên đỉnh núi lảnh lót lan theo dòng nước chảy, hòa cùng một hồn trăng phiêu diêu.

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu

            (Tỳ bà)

Trong bài mộng cầm ca Bích Khê đã mô tả mùa thu như một người thiếu nữ, có đôi mắt trong như ngọc bích, đôi mắt ấy là nỗi ám ảnh khi những hàng lông mi đã kéo trường liên tưởng của tác giả đến với ánh tơ đêm rờn rợn, qua bài “Mộng cầm ca”.

Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc?
Vú non non? Da dịu dịu, êm êm?…
Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc?
Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm!

Kỹ thuật điệp từ và điệp âm trong thơ Bích Khê đã đạt đến nghệ thuật, âm hưởng trôi chảy tự nhiên gió thổi, mây bay.

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ...

(Mộng cầm ca)

Người đời thường lầm tưởng mộng và mơ là thuộc tính của thi sĩ, nhưng kỳ thật cái mộng mơ của thi sĩ Bích Khê đã vượt lên cả sự thật trần truồng mà thất tình, nhục dục của con người thường nói chính là cái bản năng con của loài người. Bích Khê đã chiêm ngắm thế giới bằng chính sự rung động, bằng trái tim tinh huyết, bằng cả thần trí và ánh sáng của mặt trời.

Trong bài “Cuối thu”, tác giả như thể nhập vào không gian của mùa thu để thế giới bên ngoài và bên trong không còn ranh giới:

Đêm nay hồn lặng làm sao
Cảnh thu ôm cả chiêm bao vào lòng

Trời lam ứ đặc tình thu
Ô kìa mây bạc nặng lùa về tây!

Lại là một nỗi buồn của mùa thu, trong bài “Lòng em”, cũng chính là nỗi lòng của tác giả:

Nơi đây: làng cũ buồn thu quạnh!
Anh có khi nào trở
lại chưa?

Những khoảng trống cô độc cứ xâm chiếm cõi hồn của thi sĩ, cùng với nỗi ám ảnh của mùi lăng tẩm như chiếc cầu liên tưởng đến cái chết, Bích Khê rơi vào trạng thái cô đơn tuyệt cùng vào những chiều thu, tâm trạng của thi sĩ như người khách phương xa đối diện với nỗi buồn vạn cổ để mong mỏi gặp được khuôn mặt thân quen.

Ôi chiều mùa thu sao mà buồn
Tầng khói biếc đầy…tràn về thôn
Giòng sông như đờ không muốn chảy
Có phải hôm nay chở nặng hồn?
Gió về mang cả mùi lăng tẩm
Buồn cắt lên đền những miếng đen
Người viễn khách, lòng sầu vạn cổ
Dặm mòn muốn gặp một người quen!

(Dặm mòn)

Chỉ hai câu thơ trong bài “Tỳ bà”, thi sĩ Bích Khê đã vẽ nên một mùa thu man mác buồn, một nỗi buồn của thi nhân, sự trở về của linh ngã trước hư vô hay về với cõi lòng miên man sầu lữ thứ, mà sắc vàng của mùa thu là chìa khóa để đi vào cánh cửa của tâm vô trú.

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông

Bích Khê, còn có bút danh Lê Mộng Thu, tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24-3-1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình Nho giáo, cha là ông Lê Mai Khê, mất sớm, mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Ông nội làm quan dưới triều Tự Đức. Ông thân sinh là người thông uyên Hán học, có dự vào những cuộc vận động xuất dương của cụ Phan Châu Trinh. Bích Khê là con út trong một gia đình gồm 8 anh chị em. Bích Khê mất vào lúc 12 giờ khuya ngày 17-1-1946, những ngày trước khi qua đời, cõi lòng ông luôn hướng về Đức Phật Di Lặc. Thiếu thời, Bích Khê say mê đọc thơ của các thi sĩ Paul Valéry, Mallarmé, Baudelaire, Verlaine, Rimbaud…

Sinh thời, Hàn Mặc Tử đã xem văn thơ Bích Khê như đóa hoa thần dị. Trong lời đề tựa cho tập Tinh huyết, Hàn Mặc Tử nhận xét: “Thơ lúc ấy sẽ ham thích hết sức những cái gì thanh cao, như hương thơm nhơn đức của vị á-thánh, hay say mê điên dại cái gì hết sức tội lỗi mà người thế gian chưa từng phạm tới…”.

Nhận định trên cũng dành cho thi sĩ Bích Khê, một tín đồ thi ca, một tâm hồn thuần khiết, một người thơ trọn vẹn giữa cõi trần đầy phiền lụy.

LÊ HUỲNH LÂM

;
.
.
.
.
.