.
Phương hay Thuốc quý

Ngũ trảo

.

Chung quanh một trường trung học cơ sở trên đường Trưng Nữ Vương, Đà Nẵng có khá nhiều cây Ngũ trảo thuộc hàng “cổ thụ”, cao đến 5-7m. Lân la tìm hiểu, một người bảo vệ trường cho tôi biết là cô hiệu trưởng trước đây của trường này bị đau lưng, chữa trị nhiều nơi không khỏi, sau nhờ người mách dùng lá Ngũ trảo giã nhuyễn xào nóng chườm đắp nhiều lần, sau khỏi hẳn. Biết ơn cây thuốc, cô cho trồng quanh khuôn viên trường để ai cần dùng đến lấy.

Ngũ trảo (Hoàng kinh - Vitex negundo L.). Ảnh: P.C.T
Ngũ trảo (Hoàng kinh - Vitex negundo L.). Ảnh: P.C.T

Tôi lấy mẫu và xác định cây Ngũ trảo (xem ảnh, mép lá nguyên, không răng cưa) đó là cây Hoàng kinh - Vitex negundo L., thuộc họ Cỏ roi ngựa - Verbenaceae. Ngoài cây này, tại các vùng nông thôn của Đà Nẵng còn có cây Ngũ trảo mà mép lá có răng to là cây Mẫu kinh (Vitex negundo L. var cannabifolia). Cả hai đều có hình dáng của lá trông như 5 cái móng chân chim (nên gọi là Ngũ trảo) và đều được dùng làm thuốc tương tự.

Ở nước ta, Ngũ trảo mọc hoang và cũng được trồng từ Lạng Sơn cho đến Kiên Giang. Trồng bằng hạt hoặc bằng cành vào đầu mùa mưa. Thu hái lá, rễ, vỏ quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Quả thu hái vào mùa hè thu, phơi khô dùng dần.

Theo Đông y, lá Ngũ trảo có vị cay, mùi thơm, tính bình, có tác dụng giải biểu, hóa thấp, lợi tiểu, điều kinh và chống ngứa. Quả vị cay đắng, tính ấm, có tác dụng khư phong, trừ đàm, hành khí, giảm đau, trừ giun. Rễ bổ, hạ nhiệt và làm long đờm. Vỏ cây kích thích tiêu hóa và làm long đờm.

Thường dùng 2-4g hạt, 30g rễ, 40-80g lá tươi sắc uống. Dùng ngoài không kể liều lượng.

Dưới đây là một số bài thuốc dùng Ngũ trảo:

1. Dự phòng viêm ruột, sốt rét, trúng độc: Lá Ngũ trảo non hái đầu mùa hạ, phơi âm can cho khô, mỗi ngày dùng 5-10g, hãm nước uống thay trà.

2. Cảm mạo phòng hàn: Lá Ngũ trảo 30g, hành tăm 6g, gừng tươi 6g. Sắc nước chia 2 lần uống, ngày 1 thang, từ 1-3 ngày.

3. Lỵ trực khuẩn, viêm ruột, tiêu hóa kém: Quả (hạt) Ngũ trảo 500g, men rượu 30g. Hai vị sao vàng, tán bột mịn, cho thêm 250 đường kính trộn đều. Mỗi lần uống 6g, ngày 3-4 lần, uống trong 3-5 ngày.

4. Suyễn thở do lạnh: Quả Ngũ trảo sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày 3 lần.

5.  Cảm lạnh đau dạ dày, trúng nắng đau bụng: Lá Ngũ trảo tươi 15g, Nghể nhẵn (đọt non) 10g, sắc uống. Hoặc dùng bột quả Ngũ trảo uống mỗi lần 6g như bài trên.

6. Đau lưng, đau khớp do phong thấp: Rễ Ngũ trảo 30g, Lá lốt 15g, Ngũ gia bì 15g. Sắc lấy nước chia 2 lần uống, ngày 1 thang, trong 3-5 ngày.

7. Bệnh giun chỉ: Rễ Ngũ trảo 30g, phiến mỏng tẩm rượu sao vàng, sắc uống trước bữa cơm chiều.

8. Bỏng lửa nhẹ: Cành Ngũ trảo băm nhỏ, sao cháy tồn tính, tán bột trộn dầu mè hay dầu sở bôi.

9. Ngứa da, mày đay: Lá Ngũ trảo tươi nấu nước xông ngâm, tắm rửa vùng da bệnh.

10. Trào ngược dạ dày, xuất huyết dạ dày: Rễ Ngũ trảo 60g, tiên hạc thảo 30g, gà mái 1 con. Gà làm sạch, bỏ đầu, chân, nội tạng, cho 2 vị thuốc vào bụng, chưng cách thủy cho chín, bỏ bã thuốc, chia ăn vài lần trong ngày.

11. Sốt rét: Rễ và lá Ngũ trảo mỗi thứ 50g, sắc thuốc, trước khi lên cữ sốt 4 giờ uống một nửa, sau đó 2 giờ uống hết nửa còn lại.

12. Viêm khí quản mạn tính: Quả Ngũ trảo 15g, lá nhót 10g, bồ công anh 15g, trần bì 6g. Sắc thuốc chia 2 lần uống, ngày 1 thang, liên tục 5-7 ngày.

13. Trẻ em kinh phong, đàm dãi bít đường thở: Nước cốt lá Ngũ trảo và nước cốt măng tre tươi, mỗi thứ 50ml; nước cốt gừng tươi 3-5 giọt. Hòa chúng 3 thứ, thêm nước sôi nguội, chia 2-3 lần uống.

14. Viêm dạ dày - ruột cấp tính, nôn mửa tiêu chảy: Lá Ngũ trảo, Nghể nhẵn, Chế bán hạ, Hoắc hương đều 20g. Sắc nước chia uống 2 lần trong ngày.

15. Rắn độc cắn, toàn thân phù mọng nước: Lá non Ngũ trảo vừa đủ, giã vắt nước bôi chỗ mọng nước, xác đắp lên miệng vết cắn.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.