.
Phương hay Thuốc quý

Chùm hôi hay Kim sương

.

Một đồng nghiệp đi công tác ở miền núi huyện Hòa Vang mang về cho chúng tôi một mẫu cây gọi là Chùm hôi, theo kinh nghiệm người dân địa phương dùng rễ sắc uống trị đau nhức khớp xương.

Chùm hôi - Micromelum falcatum. Ảnh: P.C.T
Chùm hôi - Micromelum falcatum. Ảnh: P.C.T

Qua tra cứu, chúng tôi xác định được đó là cây Kim sương, còn gọi Chùm hôi, Ớt rừng, tài liệu Trung quốc gọi là Bạch mộc -白木, Đại quản -大管. Tên khoa học là Micromelum falcatum (Lour.) Tanaka (tên đồng nghĩa: M. minutum), thuộc họ Cam - Rutaceae.

Theo Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (tập II, tr.113), đây là cây nhỏ hay nhỡ, có thể cao đến 5-6m. Cành non có lông mềm mịn như len, cành già nhẵn. Lá kép mọc so le, gồm 7-9 lá chét hình mũi mác, màu lục hơi vàng, gốc lệch, đầu có mũi nhọn, mép uốn lượn, hai mặt nhẵn trừ gân giữa, gân lồi rõ ở mặt dưới, cuống lá kép và cuống lá chét đều có lông tơ.

Cụm hoa mọc ở đầu cành thành xim ngù, ngắn hơn lá, cuống có lông như len; lá bắc nhỏ; hoa màu trắng hay vàng nhạt; đài 5 răng ngắn có lông mềm; tràng 5 cánh nhẵn, mọc cong xuống; nhị 10 không đều, rời nhau, bầu hình trứng có lông.

Quả hình trứng, nhẵn, khi chín màu vàng đến vàng cam; hạt có lá mầm mỏng, màu lục. Mùa hoa tháng 4-6, mùa quả tháng 7-9.

Cây phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, từ nam Trung Quốc, Ấn Độ đến các nước Đông Nam Á, Australia, Polynesia,… Ở Việt Nam, chùm hôi thường mọc ở vùng núi thấp và trung du. Cây chịu bóng, mọc dưới tán rừng thưa, rừng núi đá vôi hoặc trong các quần hệ cây bụi sau nương rẫy. Cây ra hoa quả đều hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Sau khi chặt, gốc còn lại cũng có khả năng sinh cây chồi. Để làm thuốc, thường đào lấy rễ về, rửa sạch, xắt mỏng, phơi hay sấy khô.

Theo Trung Hoa bản thảo, thành phần hóa học trong rễ chứa: yuehchukene, 5,6-pyranoglycozoline, micromelin, phebalosin, murpanidin. Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam, lá và quả chứa tinh dầu; hoa thơm tiết mùi acid prussic. Nghiên cứu dược lý cho thấy dịch chiết chùm hôi có tác dụng làm giảm viêm cấp tính chân chuột, giảm co bóp hồi tràng và tử cung cô lập động vật thí nghiệm và gây tăng huyết áp trên chó.

Theo Đông y, chùm hôi có vị cay, đắng, tính ấm; có tác dụng tán ứ, giãn gân, hoạt huyết, giảm đau, giải độc, kích thích tiêu hóa. Người ta thường dùng lá trị cảm mạo, rắn độc cắn, các vết thương nhiễm trùng hay sâu bọ đốt. Lá sao vàng ngâm rượu xoa bóp chữa tê thấp, teo cơ. Rễ chữa đau họng, ho hen, tức ngực, phong thấp tê bại, chân tay co quắp, đòn ngã gãy xương, vết đứt dao chém. Một số nơi dùng lá hay rễ sắc uống chữa kinh nguyệt không đều, sốt, đau dạ dày. Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc, hoặc ngâm rượu để xoa bóp. Dùng ngoài lấy lá tươi giã đắp.

Đơn thuốc:

- Chữa đau ngực, té ngã tổn thương: rễ chùm hôi 12-20g, sắc uống.

- Chữa cảm mạo, rắn độc cắn: lá chùm hôi 8-16g, sắc uống.

- Chữa tê thấp, teo cơ, nhức mỏi, ho hen: rễ chùm hôi, vỏ núc nác, thân bạch đồng nữ hoặc xích đồng nam, rễ cây vú bò, củ sả, mỗi vị 10g, sắc uống.

- Chữa cảm sốt, đau dạ dày, tiêu chảy: rễ chùm hôi, rễ xuyên tiêu, rễ cúc áo hoa vàng, rễ chanh, quả màng tang, mỗi vị 8g, sắc uống.

- Chữa đau họng: vỏ thân chùm hôi sắc đặc, ngậm nuốt dần từng ít một.

- Chữa rắn độc cắn: lá chùm hôi giã nhuyễn, thêm nước gạn uống, bã đắp lên vết cắn.

- Chế rượu xoa bóp: rễ chùm hôi sao vàng 50g, ngâm trong 500ml  cồn 400, sau 1 tuần lễ, dùng rượu này xoa bóp vào chỗ đau nhức, teo cơ.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.