.
Phương hay Thuốc quý

Lá móng tay - thuốc hay nhưng dùng thận trọng

.

Chị Trần Thị Thanh Bòng, cán bộ hưu trí ở Hòa Châu (Hòa Vang), đã tìm đến nhà tôi nhờ định danh một mẫu cây thuốc mà gia đình bà trồng từ đời ông nội, gọi tên là Thổ nam sơn, nghe nói được đem từ bên Cao Miên (Campuchia) về trồng trong những năm kháng chiến Pháp.

Theo kinh nghiệm gia đình, bà đã dùng và cho bà con dùng sắc uống hoặc ngâm rượu uống trị sưng khớp, nhức mỏi, bệnh gout, tiểu đường, cầm máu, tan máu bầm do chấn thương, và có thể nấu nước tắm ghẻ, hăm da trẻ em...

Vì tôi chưa từng gặp cây này, nên đã gửi mẫu cho TS.Võ Văn Chi, tác giả Từ điển Cây thuốc Việt Nam, nhờ  ông đã  xác định được đó là cây Lá móng (còn gọi Lá móng tay, Thuốc mọi lá lựu, Lựu mọi, tên khoa học Lawsonia inermis L., thuộc họ Tử vi – Lythraceae).

Chị Thanh Bòng và mẫu vật cần định danh. Ảnh: P.C.T
Chị Thanh Bòng và mẫu vật cần định danh. Ảnh: P.C.T

Theo Từ điển Cây thuốc Việt Nam, Lá móng là loài cây nhỏ, cao 2-6m, có gai nhất là khi già. Lá mọc đối, đơn, nguyên, hình trái xoan nhọn, dài 2-3cm, rộng 1cm. Hoa nhỏ mọc thành chùm ở ngọn cành. Hoa màu trắng hay đỏ, vàng nhạt hay hồng. Ðài hình chuông gồm 4 lá dài. Bầu trên 4 ô. Quả nang hình cầu, có 4 ô, chứa nhiều hạt nhỏ hình tháp ngược, màu nâu đỏ.  Lá tươi thường dùng giã nát, trộn với giấm để chữa bệnh ngoài da. Các bộ phận khác của cây dùng khô sắc uống với liều 8-20g.

Lá cây lá móng tay có tác dụng hoạt huyết, tán ứ. Vỏ, thân và rễ lợi tiểu, tiêu viêm. Hoa được dùng hạ sốt và gây ngủ. Lá được dùng làm thuốc trị bệnh ngoài da như hắc lào, ghẻ lở, mụn nhọt, cũng dùng trị ỉa chảy, trừ giun sán và bệnh bại liệt. Ở Ấn Ðộ, người ta dùng làm thuốc trị đau đầu và dùng đắp vào bàn chân để trị bỏng. Nước sắc lá được dùng làm thuốc súc miệng để làm giảm đau họng. Dịch lá thêm nước và đường uống trị di tinh.

Người Ả Rập cũng dùng nó làm thuốc điều kinh và gây sẩy thai. Nhân dân ta cũng dùng lá móng làm thuốc thông kinh với hoa Chổi sể. Ta cũng thường dùng cây Lá móng để nhuộm móng tay chân, nhất vào dịp Tết Ðoan Ngọ (5 tháng 5).

Ngày nay, lá móng được sử dụng rộng rãi trong mỹ phẩm do các tính chất nhuộm màu của nó (như trong nước gội đầu, thuốc nhuộm tóc). Chất lawsone dính chặt vào tóc, có thể là do có sự phản ứng với các nhóm thiol của keretin ở tóc.

Vỏ thân được dùng chữa tê bại, nhức mỏi. Ở Ấn Ðộ, cũng dùng trị vàng da, sưng lá lách, đau sạn sỏi, bệnh ngoài da và phong cùi. Rễ dùng làm thuốc trị viêm phế quản. Ở Ấn Ðộ, người ta dùng dầu và tinh dầu xoa đắp lên cơ thể để làm mát.

Tôi tra cứu trong Trung dược đại từ điển và Trung Hoa bản thảo, Lá móng (Chỉ giáp hoa diệp) có công năng thâu liễm cầm máu, chủ trị vết thương chảy máu với cách dùng chủ yếu giã cây tươi hoặc bột lá khô đắp ngoài, không thấy nói cách dùng uống trong như tài liệu của Việt Nam, mặc dù phần dược lý tác dụng các sách có nói Lawsone của Lá móng có kết cấu tương tự với Vitamin K có tác dụng cầm máu và hạt lá móng tay có tác dụng hưng phấn đại não từ từ và có thể dùng chữa chứng suy giảm trí nhớ hay công năng tinh thần toàn thân bất túc của thanh niên.

Một số cách dùng:

1. Chữa con gái chậm thấy kinh: Lá móng 30g sắc uống.

2. Thông kinh bế để tránh thụ thai. Lá móng 50g, Ích mẫu 40g, Nghệ đen 30g sắc uống liều 3 thang cho đến khi thấy kinh mới thôi.

3. Chữa nấm móng tay, móng chân, lở ngứa ở kẽ chân móng rồi lây lan sang các ngón khác và có khi lở ở bàn tay bàn chân. Dùng lá móng giã nát với ít hạt muối đắp vào buổi tối, buộc rịt lại. Ngày có thể mở ra cho thoáng hơi và dễ làm việc.

Tuần đầu thay thuốc mới hằng ngày. Tuần thứ hai, đắp thuốc thưa ra 2 ngày một lần. Tuần thứ ba đắp 3 ngày một lần. Ðến khi hết lở ngứa mà bong da, thì bôi nhựa lá Lô hội, hay đắp lá móng, hoặc bôi dầu Gấc. Hoặc dùng: Lá móng, lá Bạch hạc, lá Phèn đen, lá trâm bầu, mỗi vị 100g, giã nát, ngâm vào 100ml rượu trắng. Dùng tăm bông tẩm thuốc bôi 2-3 lần trong ngày.

Trở lại với những phản ảnh kết quả dùng Lá móng tay chữa một số bệnh theo kinh nghiệm dân gian mà chị Trần Thị Thanh Bòng đã nói ở trên, chúng tôi cho rằng hoàn toàn phù hợp với tính năng tác dụng của Lá móng như trong các y văn đã nêu (kể cả một số triệu chứng sưng nhức, tê dại của bệnh gout, tiểu đường).

Tuy nhiên, có một điều chúng tôi hết sức lưu ý, cây thuốc này có công dụng hoạt huyết phá ứ mạnh, nên không dùng cho người không có chứng ứ huyết, nhất là phụ nữ có thai, người già và trẻ em. Vì vậy mong bạn đọc không được tùy tiện sử dụng, khi dùng phải theo chỉ định và dưới sự theo dõi của thầy thuốc để tránh các tác dụng phụ, nguy hiểm và bất lợi.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.