.

Ông già nhân hậu

.

Vào dịp Tết Trung Thu năm 1981, Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức trao giải thưởng cho “Cuộc vận động sáng tác văn học cho thiếu nhi” do Hội Nhà văn Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Kim Đồng phối hợp tổ chức. Tiểu thuyết Cát cháy của tôi được trao giải nhì (không có giải nhất) bằng chiếc xe đạp Hoàn Kiếm (trị giá khoảng 2.000 đồng). Sau cuộc trao giải, một người tầm thước, khoảng trên 50 tuổi, đến bắt tay tôi, nói giọng Quảng Nam:

- Mình là Võ Quảng. Mừng cho Thanh Quế.

Tôi à lên, ôm lấy ông. Ông không những là một trong những thành viên ban chấm giải cho tôi mà còn là nhà văn có nhiều tác phẩm tôi yêu thích. Từ đó, mỗi khi ra Bắc, tôi đều đến Hàng Chuối thăm ông và vô Đà Nẵng bao giờ ông cũng nhắn tôi đến chơi. Vào một ngày năm 1985, ở Quảng Nam-Đà Nẵng tổ chức Đại hội chiến sĩ thi đua công nông binh, ông và nhiều nhà văn quê ở Quảng Nam được mời về dự. Gặp tôi, ông rút từ trong túi dết mang bên vai ra một quyển sách:

- Đừng cho tụi nó biết, nó trách, chỉ có một quyển dành cho Quế thôi.

Đó là tập Những chiếc áo ấm do Nhà xuất bản Kim Đồng vừa tái bản.

Hai bác cháu qua lại thành đôi bạn vong niên. Có in được quyển sách nào tôi cũng gửi biếu ông, ông tái bản quyển nào cũng gửi cho tôi. Chữ ông viết to, tròn, dễ đọc, chân phương như con người ông: nhân hậu, dễ gần, nhỏ nhẹ, bao dung. Đôi lúc tôi nghĩ: ông chuyên sáng tác cho thiếu nhi là hợp lẽ vì trông ông như một ông tiên hiền từ rủ rỉ kể chuyện cổ tích cho các cháu nghe. Chuyện của ông sao mà sinh động, đằm thắm như ông lấy chính tuổi thơ của mình ra mà kể vậy.

Võ Quảng sinh năm 1920, ở thôn Thượng Phước (nay là xã Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam). Tuổi thơ ông gắn bó với dòng sông Thu Bồn. Đứng ở thềm nhà ông có thể nhìn thấy những cánh buồm trắng thấp thoáng xuôi ngược qua bãi dâu xanh. Ngày nhỏ, Võ Quảng có thể phân biệt được từng giống dâu tằm, quan sát dòng nước Thu Bồn lúc trong lúc đục. Ông theo thuyền Phường Rạnh đi xuôi phố Hội (Hội An) hay ngược lên tận Dùi Chiêng, Tí Sé. Ông cùng bạn bè trong thôn, hầu hết là những bạn bè nghèo khổ, rách rưới chơi những trò chơi đánh đáo, nhảy dây, đá bóng trên những con đường làng, ăn những bát cơm ghế sắn khoai. Ông được nghe những điệu hò của quê hương, được thấy những con người nghèo khổ vùng lên chống lại bọn hương, lý.

Ông thấy cả làng ông, mở rộng ra là nước ta như là một cái trại khổng lồ của đế quốc, phong kiến quản thúc những người dân hiền lành vô tội.

Năm 1936, ông ra học ở Trường Quốc học Huế. Tại đây, ông đứng vào hàng ngũ tổ chức Thanh niên Dân chủ do Đảng sáng lập. Ông bị địch bắt bỏ tù ở nhà lao Thừa Phủ (Huế), nhà lao Hội An (Quảng Nam), sau đó đưa về quản thúc ở Đại Hòa cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chính cuộc sống tù tội đó đã ảnh hưởng đến cái nhìn, cảm nghĩ với tư cách nhà văn của ông. Sau này còn ám ảnh trong những tác phẩm của ông như truyện “Cái lỗ cửa”. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Đà Nẵng rồi sau đó làm công tác ở Tòa án Khu 5.

Năm 1954, tập kết ra Bắc, theo sự khuyên nhủ của một số bạn bè biết ông rất yêu văn học và đã từng sáng tác từ trước cách mạng, ông quay sang dành cả cuộc đời mình cho hoạt động văn học nghệ thuật, đặc biệt là cho văn học thiếu nhi. Ông sáng tác thơ, văn, kịch bản phim hoạt hình, viết lý luận về văn học thiếu nhi. Ông đã từng là Tổng Biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng, Giám đốc xưởng phim hoạt hình, là thành viên Hội đồng văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhưng nói tới Võ Quảng là người ta hay nhắc đến những sáng tác thơ, văn của ông.

Võ Quảng bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn học của mình từ những bài thơ. Thơ Võ Quảng chuyên viết cho lứa tuổi nhi đồng. Những bài thơ của ông bao giờ cũng xinh xắn, nhẹ nhàng truyền đến cho các em lòng thương yêu thế giới cỏ cây, loài vật để từ đó hướng tới mục tiêu lớn hơn đó là yêu điều thiện, yêu cái đẹp trong cuộc sống.

Tập thơ đầu tiên của Võ Quảng được xuất bản năm 1957 là tập “Gà mái hoa”. Mỗi bài thơ khắc họa một chân dung sinh động về những con vật bé nhỏ. Đó là cô gà mái hoa lần đầu tiên tìm ổ, cô tự nhiên đổi nết, rối ra rối rít:

Cái đầu nó nghếch nghếch
Cái cổ nó thon thót
Nó kêu: tót, tót, tót!

Ở đây, ta còn gặp niềm vui của bạn bè “Mái hoa” như vịt, ngỗng, gà trống cùng chia sẻ khi cô ta đẻ một quả trứng hồng.

Sau tập thơ này, cứ vài ba năm, người ta thấy xuất hiện một tập thơ của Võ Quảng: Thấy cái hoa nở, Nắng sớm, Anh đom đóm, Măng tre, Quả đỏ…

Thơ Võ Quảng mang đến cho các em những rung cảm tinh tế, nhẹ nhàng trước khung cảnh quen thuộc mà các em đang sống. Qua thế giới thắm tươi và sinh động của cỏ cây hoa lá, những con vật bé nhỏ, Võ Quảng dạy cho các em cách quan sát và khám phá những cái rất độc đáo, rất riêng biệt trong sinh hoạt hằng ngày, từ đó làm nảy sinh lòng tin yêu cuộc sống cho lứa tuổi thơ.

Đó là mầm non nho nhỏ đang nằm ép lặng im giữa thân cây chợt bật dậy giữa trời “khoác áo màu xanh biếc” khi mùa xuân đến. Đó là anh đom đóm với chấm sáng bé nhỏ quen thuộc với các em ở nông thôn “Anh đom đóm chuyên cần. Lên đèn đi gác”. Anh “Đi gác suốt đêm. Lo cho người ngủ”. Trong chuyến đi đó, đom đóm thấy bao điều lạ:

Bờ tre rèm rũ
Yên giấc cò con
Một đàn chim non
Trong cây nổi ngáy
Ao không động đậy
Lau lách ngủ yên.

Bài thơ “Ai dậy sớm” được nhiều em và cả người lớn thuộc. Có gì bâng khuâng xao xuyến khi buổi mai nhẹ nhàng đến với mọi người:

Ai dậy sớm
Chạy lên đồi
Cả đất trời
Đang chờ đón

Thơ viết cho các em của Võ Quảng giàu nhạc điệu, và nhờ nhạc điệu đó làm cho người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ cảm xúc, từ đó mà phát huy được chủ đề giáo dục. Các em có thể vừa đọc thơ vừa nhảy múa, vui chơi…

Ở văn xuôi, truyện của Võ Quảng viết cho nhiều lứa tuổi. Với lứa tuổi nhi đồng, ông viết truyện đồng thoại như “Cái mai”, “Bài học tốt”, “Những chiếc áo ấm”. Nhưng có lẽ phần phong phú nhất cũng là tâm huyết nhất là những truyện ông viết cho lứa tuổi thiếu niên. Có lẽ lứa tuổi sắp bước vào đời này có nhiều ước mơ, hoài bão, tác giả muốn trang bị cho các em hành trang đầy đủ hơn, muốn tâm sự với các em nhiều hơn. Tác phẩm của Võ Quảng cũng dài hơi hơn. Ông có hai truyện vừa: Cái Thăng và Chỗ cây đa làng, hai tác phẩm viết về thiếu nhi tham gia kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là hai truyện dài Quê nội và Tảng sáng.

Để viết Quê nội và Tảng sáng Võ Quảng đã phải chuẩn bị trên 10 năm. Ông huy động tất cả tuổi thơ của mình, một tuổi thơ đầy sống động và gần như được lưu giữ nguyên vẹn trong ký ức. Ông đã dày công làm đề cương, ghi chép các sự kiện, phong cảnh, nhân vật với tính cách và lời ăn tiếng nói cùng những câu ca dao, những phong tục địa phương…

Quê nội (1972) và Tảng sáng (1978) là một câu chuyện nối liền nhau trong đó tác giả đã dựng bốn nhân vật với cá tính khác nhau hiện thân cho 4 tai họa chính mà nhân dân ta phải chịu đựng trong thời nô lệ đó là nạn áp bức, nạn nghèo đói, nạn dốt và nạn mê tín dị đoan. Cách mạng nổ ra, 4 người cùng khổ đó đã sống lại rồi cùng với các tầng lớp nhân dân vùng dậy, dần dần họ biến thành những chiến sĩ gan dạ dám quên mình vì Tổ quốc, vì nhân dân.

Câu chuyện cho ta thấy một khi con người đã nắm được chân lý, đã biết tin yêu thì sẽ làm chủ được vận mệnh của mình và bộc lộ những khả năng vô tận. Đây là câu chuyện của một địa phương nhưng cũng là câu chuyện của cả nước, câu chuyện của một thời kỳ nhưng cũng là chuyện của lịch sử dân tộc. Ở đây, tác giả đã tạo ra được một giọng nói chân thật, hồn nhiên giàu hơi thở cuộc sống. Với lòng yêu quê hương tha thiết, tác giả đã làm sống lại hình ảnh những ngày đầu cách mạng và cuộc kháng chiến chống Pháp ở một vùng quê miền Trung với một hiện thực đầy chất thơ. Những trang hiện thực được lồng ghép với những trang cổ tích huyền thoại bay bổng làm cho câu chuyện đầy dư vang, nối kết dĩ vãng với hiện tại, mở rộng chủ đề của truyện.

Quê nội và Tảng sáng là bộ sách thành công nhất của Võ Quảng, chứng tỏ vốn sống phong phú và tâm huyết của tác giả đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, chứng tỏ tài năng của ông và là đóng góp lớn nhất, tiêu biểu nhất của Võ Quảng cho văn học thiếu nhi Việt Nam.

Nhìn dáng người âm thầm, khuôn mặt nhân hậu, tiếng nói rủ rỉ ta nghĩ ngay con người này là người giàu tình cảm, hay xúc động, là con người của sáng tác hơn là con người của lý luận, của trí tuệ sắc sảo. Điều đó thật nhầm. Võ Quảng vốn là con một ông đồ nho yêu văn thơ và đã truyền dạy cho con lòng yêu văn học và chữ Hán từ hồi còn nhỏ. Lớn lên Võ Quảng còn học chữ Pháp. Có lẽ vì thế mà sau này ông còn cùng vợ ông (Phương Thảo) dịch nhiều tác phẩm từ tiếng Pháp.

Điều đáng nói hơn là qua thực tiễn, sáng tác, qua việc đọc sách, tạo cho Võ Quảng có một vốn lý luận sắc sảo, đặc biệt là lý luận về văn học thiếu nhi. Ông đã viết tới trên 60 bài về lý luận, phê bình văn học, nêu lên vấn đề đối tượng sáng tác, mối quan hệ giữa văn học và sư phạm, giữa văn học và tâm lý lứa tuổi, các phương pháp viết, các loại hình văn học thiếu nhi. Trên cơ sở lý luận này, ông là một trong những người góp phần xây dựng và bồi dưỡng lực lượng sáng tác cho thiếu nhi, nhất là các cây bút trẻ. Đối với tôi, không những ông vui mừng khi tập Cát cháy của tôi được giải như tôi đã kể trên, mà sau này mỗi lần gặp tôi ông lại hỏi đã sáng tác thêm được gì mới cho các em. Ông truyền cho tôi kinh nghiệm sáng tác của ông. Ông vui sướng khi tôi có tác phẩm mới. Trong những lần nói chuyện với ông, ông thường hỏi:

- Ở Quảng Nam - Đà Nẵng ngoài Quế còn có anh chị em nào viết cho thiếu nhi nữa?

Khi tôi kể đến Ngân Vịnh, Trần Khắc Tám, Trần Trung Sáng, Quế Hương, Lê Trâm… và tác phẩm của anh chị em, ông cầm tay tôi lắc lắc:

- Nhắc anh chị em sáng tác cho đều và có gì gửi cho bác nhé. Nhớ nhé.

Trong lần tưởng niệm Võ Quảng tại Đà Nẵng sau khi ông mất (năm 2007), anh Tấn, con trai cả của ông nói với tôi:

- Trước khi mất ba em còn nhắc đến anh và các anh chị ở Quảng Nam-Đà Nẵng. Ông nói, không biết bây giờ chúng nó có khỏe, có còn viết cho thiếu nhi nữa không?

Võ Quảng là một người như thế!

THANH QUẾ

;
.
.
.
.
.