.

Từ chức kiểu... Quảng

.

Từ chức là ứng xử một cách có văn hóa theo lẽ thường tình xưa nay. Khi cảm thấy năng lực không đủ để đáp ứng yêu cầu công việc hoặc điều kiện làm việc không bảo đảm hay không phù hợp để hoàn thành nhiệm vụ thì phải từ chức. Thế nhưng từ chức theo kiểu của ông tiến sĩ người Quảng Nam Nguyễn Tường Phổ thì ít thấy.

Từ đường Nguyễn Tường ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ảnh: L.T
Từ đường Nguyễn Tường ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ảnh: L.T

Nguyễn Tường Phổ tự là Quản Thúc, Hy Thần, hiệu là Thứ Trai; sinh năm 1807, tại làng Cẩm Phô, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay là phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; là con trai thứ của Thượng thư Bộ Binh - Phó Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Tường Vân. Cụ Nguyễn Tường Vân vốn có tên là Nguyễn Văn Vân, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, vào Gia Định lập nghiệp, sau theo phò Nguyễn Ánh. Cụ Vân đã chọn làng Cẩm Phô để làm nơi “tường phát địa” cho dòng họ Nguyễn Tường vốn được Nguyễn Ánh đổi lại từ Nguyễn Văn, nhân một lần đi qua núi Phước Tường (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng).

Sách Đại Nam liệt truyện viết về ông: “Tường Phổ lúc nhỏ kháu khỉnh lạ, khẳng khái có khí thức, học rộng nghe nhiều, ngoài chính kinh ra, về kiếm thư cầm phả không nghề gì là không thông”.

Ông đỗ cử nhân khoa Tân Sửu (1841), khi đã 34 tuổi. Năm sau, vào thi Đình ông đỗ Tiến sĩ đệ tam giáp. Khoa thi Đình trước đó vào năm Mậu Tuất (1838), anh ông là Nguyễn Tường Vĩnh đỗ Phó bảng. Thời đó, một nhà hai khoa liên tiếp có người đỗ đại khoa là một hiện tượng đặc biệt. Em lại đỗ cao hơn anh nên được xem là nhà có phúc lớn.

Sau khi thi đỗ, Nguyễn Tường Phổ được bổ Hàn lâm viện biên tu ở Nội các, rồi thăng tri phủ Hoằng An (Bến Tre), tri phủ Tân An (Gia Định), tri phủ Tuy Phước (Bình Định). Một thời gian sau ông cáo bệnh xin về quê. Năm 1846 lại bổ làm Giáo thọ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, rồi chuyển về trông coi nhà in ở phủ Học Chánh sau đó thăng Quyền Đốc học tỉnh Hải Dương...

Ông nổi tiếng văn chương, chuyên tâm về việc giáo dục “dạy người không biết mệt, cốt thực bỏ hủ, trước nghĩa lý sau mới văn chương, tính cương mà khí hào, tự mình giữ kỷ luật rất nghiêm nên trách người quá nặng” (Đại Nam liệt truyện). Khí chất Quảng Nam này được ông giãi bày qua lời tâm sự “Ta bình sinh không hay khoan thứ cho người, nên đặt hiệu là Thứ Trai mà tự là Quản Thúc. Đó là muốn châm biếm cái tính thiên lệch mà chưa được”.

Cao Xuân Dục trong Quốc triều hương khoa lục đã nhận xét về ông: “Người có khí tiết, không a dua, không thiết gì về sự thăng quan tiến chức, chỉ lấy câu thơ chén rượu làm vui. Người bấy giờ ví ông với Đào Tiềm”.

Nguyễn Tường Phổ mất khi mới 50 tuổi (1856) và lúc đang còn tại chức Đốc học Hải Dương. Ông được triều đình cho đưa về an táng ở quê nhà (làng Cẩm Phô, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam). Sau này con trai ông là Nguyễn Tường Tiếp, lại được bổ làm tri huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Dòng họ Nguyễn Tường nổi tiếng ở đất Hải Dương sau này đều bắt đầu từ việc Nguyễn Tường Phổ dạy học tại đây.

Nguyễn Tường Phổ làm quan nổi tiếng liêm chính, công bằng, tính tình cao thượng, yêu người nghèo khổ. Nhưng ông lại rất nghiêm khắc với bản thân, cấp dưới và cả cấp trên. Ông lại không chịu a dua, nịnh bợ nên không được cấp trên vừa ý, đường hoạn lộ của ông khó mà thăng tiến. Ông đã hai lần bị giáng cấp và một lần từ chức sau khi chửi khéo cấp trên.

Chuyện kể, khi ông làm tri phủ Tuy Phước, Bình Định dưới triều Thiệu Trị, nhân trong phủ bị hạn và bị dịch, ông bẩm với tỉnh xin tâu về triều xin chẩn cấp cho dân. Quan tỉnh Bình Định sợ tâu lên những tai biến như vậy sẽ làm nhà vua buồn lòng và có khi bị Bộ quở trách nên tất cả đều nín thinh. Ông tức giận lên tận tòa tỉnh, hỏi tội quan bố chánh. Về phủ, ông làm bài thơ dán trước cửa phủ rồi cáo quan đi về, mặc dù chưa được sự đồng ý của bố chánh Bình Định và Bộ Lại ở triều. Bài thơ ông treo trước cửa phủ chỉ vỏn vẹn có 4 câu như sau:

Bảo đói e Bộ quở
Tâu dịch sợ vua rầu
Giống quan như thế ấy
Chở biết mấy ghe bầu!

Lần đó, không những viên bố chánh Bình Định bị quở trách mà ông cũng bị biếm chức. Đổi lại, dân Tuy Phước được triều đình mở kho cứu đói kịp thời. Và cái “ngông”, cái “hào khí” của viên tri phủ người Quảng, được dân Tuy Phước nhắc mãi và cách từ chức lạ đời của ông lại trở thành giai thoại độc đáo ở chốn quan trường.

LÊ THÍ

;
.
.
.
.
.