.
Phương hay Thuốc quý

Đơn màng chữa viêm gan, tiểu đường

.

Lương y Trần Đình Niên, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Dược liệu thành phố Đà Nẵng có giới thiệu một cây thuốc có tên là “Răng cưa” đã được một số bệnh nhân tiểu đường sử dụng nấu nước uống hằng ngày cho kết quả rất khả quan.

Đoàn điều tra dược liệu thành phố Đà Nẵng khảo sát vườn thuốc nam của lương y Trần Đình Niên (đứng giữa). Ảnh: P.C.T
Đoàn điều tra dược liệu thành phố Đà Nẵng khảo sát vườn thuốc nam của lương y Trần Đình Niên (đứng giữa). Ảnh: P.C.T

Theo chân lương y Trần Đình Niên đến thăm vườn thuốc nam gia đình ông ở đường Hà Duy Phiên, khu dân cư phía Nam cầu Cẩm Lệ, nhờ gặp cây đang ra hoa nên chúng tôi đã quan sát và xác định được đó chính là cây Đơn màng.

May mắn cho tôi là cách đây khá lâu đã được lương y Thái Đờn, nguyên Chủ tịch Hội Đông y thành phố Đà Nẵng (cũ) giới thiệu cây này trồng trong vườn nhà ông từ trước năm 1975. Theo thầy Đờn, cây này được một y sĩ tên Nguyễn Văn Ba cho giống lấy từ miệt Đồng Tháp, Nam bộ và cho biết lá cây này có tác dụng lợi tiểu, chữa phù thận, viêm gan, xơ gan cổ trướng… Thầy Đờn cho biết ông đã ứng dụng chữa một số bệnh về gan, thận, thấy kết quả đúng như kinh nghiệm dân gian đã nói.

Khoảng tháng 4-2011, cây này ra hoa, tôi đã chụp ảnh, đăng trên tạp chí Cây thuốc quý để  nhờ các nhà chuyên môn định danh.

Ngay sau đó, TS.Võ Văn Chi, tác giả bộ sách Từ điển cây thuốc Việt Nam, đã yêu cầu tôi gửi mẫu vật cây thuốc đang có hoa để nghiên cứu, giải đáp. Sau khi tham khảo nhiều ý kiến của các đồng nghiệp, TS. Chi đã đến so mẫu ở Bảo tàng Thực vật học và cuối cùng xác định tên chính thức của cây này là Maesa membranacea A. DC., thuộc họ Đơn nem - Myrsinaceae.

Cây này theo sách Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, NXB Trẻ, quyển 1, trang 677) có tên Việt là Đồng đơn, Đơn mỏng. Theo Thực vật chí Việt Nam, tập 4, trang 28 (năm 2002) có tên là Đơn màng, Đồng đơn, Chắp nhẵn, Đơn răng cưa.

Dưới đây là một số thông tin mô tả về cây này do TS. Võ Văn Chi trích dịch theo Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Fasc 32, Myrsinaceae (2004).

Đơn màng là cây nhỡ cao 4-5m, hoặc cây gỗ nhỏ cao đến 9m, hoàn toàn nhẵn, có cành leo, các nhánh có góc nhiều hay ít lúc non, rồi hình trụ, màu nâu sáng, có lỗ bì rải rác. Lá hình trứng tới xoan - bầu dục, cỡ (7) 10-18 x 4-10cm, tròn hoặc hình tim, ít khi thành góc ở gốc, nhọn ở chóp, mép có răng không đều, với răng tù, mỏng dạng giấy, màu xanh ô liu ở mặt trên, màu nhạt hơn ở mặt dưới, có những dạng gân có tuyến khá rõ ở cả 2 mặt; gân giữa phẳng, gân bên 6-9 đôi, cong hình cung hướng lên, có các phân nhánh tận cùng ở các răng cưa của mép lá, mạng gân tam cấp (gân cấp 3) lồi nhiều hay ít, nhìn rõ trên cả 2 mặt; cuống lá dài 1,5 - 3cm có rãnh ở phía trên.

Cụm hoa ở ngọn cây và ở nách lá thành chùy, dài 4 - 14cm, phân nhánh một lần; các phân nhánh dài 1-4cm, mang nhiều hoa xếp thành chùm; lá bắc con đính gần đỉnh của cuống hoa, dài 1 - 1,5mm. Hoa có đường kính 2,5 - 3mm; đài dài 1 - 1,4mm, chẻ đến tận giữa, có thùy hình trái xoan rộng, tù hay tròn ở đỉnh, có những rạch tuyến dọc; tràng hoa màu trắng, dài 1,5mm, chẻ đến gần quá nửa trên, có thùy hình trái xoan rộng, tròn ở đỉnh, có chấm thành đường tuyến; nhị chính ở phần trên của ống tràng, thót vào trong hoa; bao phấn hình trứng, dài 0,25 - 0,4mm, tù, có chỉ nhị dài gấp đôi bao phấn, vòi nhụy dài tới các thùy của đài; bầu nhụy hình đầu. Quả gần hình cầu, đường kính cỡ 4mm, có những rạch tuyến (gân) dọc theo quả.

Loài này phân bố ở Hải Nam, Trung Quốc, ở miền Trung và miền Nam Việt Nam và ở Campuchia, thường gặp trong rừng thưa, ở độ cao 400 – 1.500m. Hoa từ tháng 2 đến tháng 4, quả từ tháng 6 đến tháng 8.

Theo TS. Võ Văn Chi, một số kinh nghiệm dân gian cho biết lá cây Đơn màng có tác dụng lợi tiểu, chữa phù thận, viêm gan, xơ gan cổ trướng… là có thể tin cậy được, vì một số loài cùng chi Maesa cũng đã được dùng làm thuốc như:

Đơn lộc ớt -  Maesa  indica (Roxb.) A. DC.: Tính mát, vị đắng; tác dụng thanh nhiệt giải độc, sơ can lợi tiểu; công dụng: ở Vân Nam dùng trị viêm gan vàng da cấp tính, sởi, ỉa chảy, đau dạ dày, cao huyết áp.
Đơn núi - Maesa montana A. DC.: Tính mát vị đắng; tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chỉ khát; công dụng: ở Vân Nam dùng trị bệnh lỵ, còn ở Quảng Tây dùng trị phế kết hạch, dạ dày - ruột xuất huyết máu, chảy máu cam, tiểu ra máu, kinh nguyệt quá nhiều, xơ gan, sốt rét, đòn ngã tổn thương, mụn sảy.

Đơn nem - Maesa perlarius (Lour) Merr: Tính bình, vị đắng; tác dụng tiêu thũng tiếp cốt, khứ hủ sinh cơ; công dụng: Ở Vân Nam dùng trị đòn ngã tổn thương, vết chém, bệnh phổi, đinh nhọt. Ở Quảng Tây dùng trị phế kết hạch, viêm gan, băng lậu, phong thấp tê đau, thấp sang, viêm da.

TS. Võ Văn Chi kết luận: “Đây là một cây thuốc mới, sau này cần bổ sung. Nếu có những thông tin về việc sử dụng có hiệu quả, xin bạn đọc cho biết thêm”.

Nay xin cảm ơn lương y Trần Đình Niên đã bổ sung thêm kinh nghiệm chữa bệnh tiểu đường của cây thuốc này.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.