.

Tăng cường nhận thức ung thư vú

.

Ung thư vú đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe phụ nữ ở mọi quốc gia. Theo Cơ quan nghiên cứu ung thư thế giới (IARC), ung thư vú đứng đầu, chiếm 21% trong tổng số các loại ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới.

Ngay cả ở những nước đang phát triển, ung thư vú đứng hàng thứ hai trong các loại ung thư thường gặp ở phụ nữ (30%) sau ung thư cổ tử cung. Ung thư vú đang trở nên phổ biến tại các nước đang phát triển. Đây là một bệnh hết sức phức tạp mà trong nhiều năm qua đã có nhiều nghiên cứu về nguyên nhân, bệnh sinh và điều trị. Điều quan trọng cần phải nhận thấy là việc phát hiện sớm ung thư vú qua sự tầm soát ở những phụ nữ bình thường đã làm thay đổi rõ ràng bệnh sử tự nhiên của bệnh cũng như cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh.

Yếu tố bệnh nguyên liên quan đến sự phát triển ung thư vú:

Người ta nhận thấy nguy cơ bị ung thư vú tăng lên ở những bệnh nhân sau:

Triệu chứng lâm sàng

Đa phần ung thư vú được phát hiện là do chính người bệnh, khi họ ghi nhận thấy một sự thay đổi ở tuyến vú. Thường gặp nhất đó là một khối u hay một chỗ dày cứng lên không đau ở vú. Hoặc cũng có thể do thầy thuốc phát hiện qua một lần khám sức khỏe thường kỳ.

Cần phải nghi ngờ ung thư vú khi thấy bất kỳ u nào ở vú ở người phụ nữ trên 30 tuổi cho đến khi có triệu chứng chính xác ngược lại mặc dù khoảng 80% khối bất thường ở vú là lành tính.

Những tính chất sau của khối bướu gợi ý ác tính:

Cứng, loét ở giai đoạn trễ; không đau (chiếm khoảng 85-90%); không đồng nhất, bờ không rõ; dính vào thành ngực hoặc da trên vú, khó di động; núm vú bị co kéo; tiết dịch lẫn máu ở núm vú.

Bệnh nhân có thể đến khám với các triệu chứng của ung thư tiến triển hoặc đã có di căn xa:

Hạch nách hoặc hạch trên đòn; tràn dịch màng phổi, làm bệnh nhân đau ngực, khó thở; tràn dịch màng ngoài tim, bệnh nhân khó thở, suy hô hấp...; gãy xương, khi ung thư đã di căn vào xương; bụng: gan to, báng bụng...; di căn lên não: khối u xuất hiện trong não làm bệnh nhân đau đầu, hôn mê; chèn ép cột sống làm bệnh nhân đau lưng, yếu liệt tay chân...

Xét nghiệm cận lâm sàng

- Chọc hút bằng kim nhỏ (FNA - Fine Needle Aspiration): dùng một kim hút nhỏ lấy một mẫu bệnh phẩm và dùng để làm xét nghiệm tế bào học. Xét nghiệm này có thể cho biết tế bào lấy ra có đặc trưng cho ung thư hay không, nhưng không thể phân biệt ung thư tại chỗ hay ung thư xâm lấn được. Âm tính giả có thể xảy ra khi thật sự là ung thư mà mũi kim không chạm vào u.

- Sinh thiết trọn khối u: thực hiện khi chọc hút không cho chẩn đoán xác định. Tuy nhiên, ngày nay việc sinh thiết trọn khối u ít được thực hiện dần đi vì chọc hút bằng kim nhỏ ngày càng cho thấy tính chính xác cao.

- Chụp nhũ ảnh (mammography).

- Siêu âm tuyến vú: Là một xét nghiệm rẻ tiền, đơn giản. Siêu âm giúp phân biệt rõ một tổn thương dạng nang với một tổn thương dạng đặc. Ngoài ra, với siêu âm người phụ nữ không có nguy cơ nhiễm tia X, thích hợp cho phụ nữ có thai và phụ nữ trẻ.

- Ngoài ra còn có nhiều phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác được sử dụng trong chẩn đoán ung thư vú, nhưng ở Việt Nam ít dùng như: CT scan, MRI,...

- Những xét nghiệm giúp đánh giá đáp ứng điều trị: Tìm thụ thể với estrogen, đo nồng độ estradiol tự do trong máu,...

Bs NGUYỄN THỊ THANH LOAN

Khoa sản BV Hoàn Mỹ Đà Nẵng
 

;
.
.
.
.
.