.
45 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Tư duy đổi mới trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

.

Hồ Chí Minh có tư duy cách tân, đổi mới từ rất sớm. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nhưng không bị ràng buộc bởi những tư tưởng trung quân như một số trí thức đương thời, tư tưởng yêu nước của Người thấm nhuần những giá trị dân tộc và nhân bản của đạo lý Việt Nam, gắn nước với dân và lấy đó làm chuẩn mực cao nhất cho mọi giá trị tinh thần.

Tư duy đổi mới của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ phân biệt rõ mục đích với phương thức cứu nước. Theo Người, mục đích chỉ có một là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phương pháp và cách thức để đạt mục đích thì có nhiều. Tư duy đổi mới của Hồ Chí Minh được nâng cao, mang nội dung khoa học và cách mạng dưới ánh sáng Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người quan niệm “cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới”, và “công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”.

Theo Hồ Chí Minh, đổi mới bao hàm cả giá trị cũ, nhưng mặt khác, không phải cái gì làm mới cũng hay. Người giải thích “cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”. Người nhấn mạnh: “Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” (1).

Phạm Văn Đồng viết “văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa”. Mà di sản Hồ Chí Minh là một kho tàng văn hóa. Điều đó cũng có nghĩa di sản Hồ Chí Minh chứa đựng những giá trị đổi mới mà ta khai thác chưa được bao nhiêu. Tác phẩm lý luận đầu tiên là Đường cách mệnh chứa đựng tinh thần đổi mới. Tác phẩm Đời sống mới như đã nêu, chứa đựng tư duy mới về đời sống. Sửa đổi lối làm việc viết về đổi mới đầu tiên trong điều kiện Đảng cầm quyền. Tác phẩm Dân vận là cương lĩnh đổi mới về công tác quần chúng. Di chúc là kết tinh tư tưởng đổi mới hơn nửa thế kỷ từ lúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước.

Không bàn nhiều về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mặc dù nhân dân ta còn phải kinh qua gian khổ nhiều hơn nữa, Di chúc trăn trở với công việc sau cuộc kháng chiến. Người viết: “Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”(2).

Người suy nghĩ “về một kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm nhằm xây dựng lại đất nước đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh, hơn mười ngày nay”. Từ phác thảo một kế hoạch bao quát về mở rộng kinh tế, phát triển công tác vệ sinh, y tế, giáo dục, quốc phòng, công việc thống nhất Tổ quốc, tư duy đổi mới sáng suốt nhằm xây dựng và phát triển đất nước có thể nhận diện qua các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, trăn trở “đầu tiên là công việc đối với con người”. Đọc phần viết thêm tháng 5-1968, liên quan tới con người, có ba điểm đáng lưu ý. Một là, Hồ Chí Minh quan tâm tới tất cả mọi đối tượng với một tinh thần nhân văn cao cả “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Đó là những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con của thương binh-liệt sĩ; những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; phụ nữ; đối với nạn nhân của chế độ xã hội cũ; đồng bào nông dân. Hai là, Người lo lắng tới đời sống mọi mặt cả vật chất và tinh thần cho con người, như “nơi ăn chốn ở yên ổn”, không để ai bị đói rét. Người quan tâm tới “cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.

Người hướng những nạn nhân của chế độ cũ theo con đường “trở nên những người lao động lương thiện”. Đối với đồng bào nông dân, Người muốn đem lại cho họ sự “hỉ hả, mát dạ, mát lòng”. Nhưng điều quan trọng nhất là Hồ Chí Minh hướng tới và trang bị tinh thần tự vươn lên cho mọi người với ý chí “tàn mà không phế”, không ỷ lại, ngồi chờ. Người dặn “phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”(3). Với cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, “phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp”.

Người cũng bàn tới mối quan hệ giữa “đức trị” và “pháp trị” để cải tạo những nạn nhân của chế độ cũ theo tinh thần “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lương thiện”. Ba là, Người kỳ vọng vào các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc mà hàng đầu là chủ nghĩa yêu nước, tạo nên những tố chất trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước. Vì vậy, Người dặn lại “cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”.

Thứ hai, trên cơ sở nhận thức về quy luật sự tiếp nối của các thế hệ trong tiến trình cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới đoàn viên và thanh niên. Người kỳ vọng đó là lực lượng “thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, Người dặn dò phải “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Không đơn thuần là thế hệ cho đời sau mà là thế hệ cách mạng. Vì vậy, phải “chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ”, đào tạo họ thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Thứ ba, Hồ Chí Minh có một tầm nhìn xa về môi trường, một  trong những yếu tố quan trọng cho phát triển bền vững. Tư duy của Hồ Chí Minh về môi trường có từ sớm khi Người bàn về đời sống mới, Tết trồng cây. Trong Di chúc, Người cho ta một cái nhìn mới mẻ về xử lý thi hài bằng “hỏa táng, điện táng”. Người mong rằng “cách làm này dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất”. Người khẳng định lại lợi ích trồng cây. Đó không chỉ là kỷ niệm hay huy động sức mạnh toàn dân bằng cách “giao phó cho các cụ phụ lão”. Điều quan trọng là “lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”.

Thứ tư, chỉnh đốn lại Đảng. Hồ Chí Minh quan tâm tới Đảng Cộng sản từ Cách mạng Tháng Mười. Đặc biệt từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám-1945, nỗi bận tâm lớn nhất của Người là Đảng cầm quyền. Tại sao như vậy? Một là, Người hiểu rõ sứ mệnh của Đảng cầm quyền rất nặng nề, vì từ nhiệm vụ xóa bỏ sang xây dựng là hai loại quy luật hoàn toàn khác nhau. Người chỉ rõ “thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”(4).

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Phải tạo lập một lực lượng sản xuất hiện đại và cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Hai là, Đảng cầm quyền, cán bộ đảng viên có quyền lực nên có thuận lợi cho Đảng lãnh đạo, nhưng từ hai mặt của quyền lực nên cũng là mảnh đất tốt làm nảy sinh nhiều thói hư, tật xấu như quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Ba là, từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, không chỉ khó khăn về lực lượng sản xuất, về kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mà một điều đáng quan ngại là tư duy tiểu nông gắn với những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi là một cuộc chiến đấu khổng lồ”. Sự hư hỏng ở đây không đơn giản chỉ là vật chất mà nguy hại hơn là con người, tư tưởng, tổ chức. Từ năm 1947, trong Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Bốn là, tình hình thế giới ngày càng đổi thay, bên cạnh thuận lợi, Người lường tới những khó khăn, phức tạp cho cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng phải đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, vượt qua khó khăn, chiến đấu với niềm tin nhất định thắng lợi.

Chỉnh đốn lại Đảng là chỉnh đốn những gì? Phải chỉnh đốn toàn diện: đoàn kết nhất trí từ các đồng chí Trung ương đến các chi bộ; thực hành dân chủ rộng rãi bằng cách thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; thái độ nhân văn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; thật sự thấm nhuần và tu dưỡng đạo đức cách mạng; nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.

Thứ năm, thương yêu, kính trọng, tin tưởng nhân dân. Những quan điểm “trong thế giới này không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”; “mọi việc đều do người làm ra”, “có dân là có tất cả”; “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”; “dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được”... được đúc kết lại trong Di chúc: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.

Thứ sáu, mở rộng quan hệ quốc tế. Khác với các sĩ phu yêu nước đương thời, từ năm 1911, Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn thời đại, ra nước ngoài khám phá thế giới để trở về giải quyết vấn đề Việt Nam. Tầm nhìn và cách nhìn đó thể hiện sự nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ cuộc đời cách mạng của Người. Di chúc thể hiện trách nhiệm cao cả của một chiến sĩ cộng sản, một người suốt đời phục vụ cách mạng đối với phong trào cộng sản quốc tế. Nỗi tự hào và sự đau lòng về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đan xen trong Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, Người có ý định sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sẽ đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ công cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đó cũng là cách duy trì và mở rộng quan hệ quốc tế theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” và “bốn bể đều là anh em” mà trước đây Hồ Chí Minh đã thực hiện. Người kỳ vọng Đảng và Nhà nước ta sẽ góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Những nội dung trên cho thấy toàn bộ Di chúc bàn về tương lai của đất nước với “một kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Về kinh tế, Di chúc nói tới việc “khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế”. Về văn hóa, Di chúc đề cập việc “sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động”. Ngay cả khi bàn về cuộc kháng chiến chống Mỹ, Di chúc cũng thể hiện niềm tin chắc chắn, nhất định thắng lợi, rồi “ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”. Viết về phong trào cộng sản, Người cũng “tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”.

Tóm lại, Di chúc thể hiện tinh thần của cương lĩnh xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo cách diễn đạt ngày nay, để tiến cùng nhịp bước của thời đại. Nhìn lại 45 năm thực hiện Di chúc của Bác, chúng ta có thể khẳng định rằng lúc nào, nơi nào, lĩnh vực nào vận dụng sáng tạo lời dạy của Người thì thành công; ngược lại là khó khăn, giẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại.

PGS, TS BÙI ĐÌNH PHONG


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.215.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.503.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.503.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.4.

;
.
.
.
.
.